Phân tích vai trò của Bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hôi

Trên thế giới quan niệm về “an sinh xã hội “được hiểu không thống nhất.

Theo quan niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO): an sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong.

Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) quan niệm : an sinh xã hội rất rộng bao gồm: trợ giúp xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, các chương trình giảm nghèo, các chương trình thị trường lao động.

Ấn Độ quan niệm vấn đề cốt lõi của an sinh xã hội là phòng ngừa và giảm nghèo, cung cấp mức sống tối thiểu cho người dân…

Tuy khái niêm của an sinh xã hội có thể hiểu khác nhau, song các quan niệm đều thống nhất với nhau ở một điểm là an sinh xã hội mang tính hệ thống, bao gồm những chính sách để phòng ngừa, giảm thiểu, trợ giúp, bảo vệ những người gặp rủi ro, gồm có 4 trụ cột chính như: hệ thống chính sách và các chương trình về thị trường lao động tích cực; hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội; hệ thống chính sách trợ giúp xã hội; hệ thống lưới an toàn xã hội

Hệ thống an sinh xã hội được xây dụng có sự khác nhau giữa các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, có thể thấy những cơ chế chủ yếu của nó bao gồm: bảo hiểm xã hội, Cứu trợ xã hội .Các chế độ trợ cấp từ quỹ công cộng, Các chế độ trợ cấp gia đình, Các quỹ dự phòng, Sự bảo vệ do người sử dụng lao động cung cấp, Các dịch vụ liên quan đến an sinh xã hội.

Trong các cơ chế chủ yếu của hệ thống an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội là trụ cột quan trọng thứ nhất, tạo ra nguồn thu nhập thay thế trong trường hợp nguồn thu nhập bình thường bị gián đoạn đột ngột hoặc mất hẳn, bảo vệ cho những người lao động làm công ăn lương trong xã hội. Các chế độ của bảo hiểm xã hội đã hình thành khá lâu truớc khi xuất hiện thuật ngữ an sinh xã hội

READ:  Hãy nêu bản chất của an sinh xã hội?

Theo tổng kết của ILO (công ước 102 năm 1952), bảo hiểm xã hội bao gồm 9 chế độ chủ yếu sau:

Công uớc cũng nói rõ là những nước phê chuẩn công ước này có quyền chỉ áp dụng một số chế độ, nhưng ít nhất phải áp dụng một trong các chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tàn tật hoặc trợ cấp tử tuất.

Việc áp dụng bảo hiểm xã hội trên của quốc gia khác nhau thường cùng rất khác nhau về nội dung thực hiện tùy thuộc vào nhu cầu bức bách của riêng từng nơi trong việc đảm bảo cuộc sống của người lao động, ngoài ra, còn tùy thuộc vào khả năng tài chính và khả năng quản lí có thể đáp ứng

sơ đồ mạng lưới an sinh xã hội

Tuỳ từng quốc gia mà mạng lươi an sinh xã hội có đáy rộng hay hẹp

bảo hiểm xã hội được coi là “ lưới” đầu tiên và quan trọng nhất của hệ thông an sinh xã hội do:

1. hoạt động bảo hiểm xã hội được thực hiện trên cơ sở các bên cùng đóng góp tài chính để tạo lập quỹ tài chính tập trung so với các hệ thống khác trong hệ thống an sinh xã hội.bảo hiểm xã hội có tính tự chủ về tài chính

2. đối tượng của bảo hiểm xã hội là người lao động, do vậy bảo vệ quyền lợi cho những đối tượng này góp phần rất quan trọng vào viêc bảo vệ an toàn cho xã hội

3. bảo hiểm xã hội được hoạt động theo 1 cơ chế độc lập , có tổ chức , có tính kỉ luật cao.Do vậy việc duy trì hệ thống sẽ ổn định và không bị phụ thuộc bảo hiểm xã hội điều tiết các chính sách trong hệ thống an sinh xã hội

Hệ thống bảo hiểm xã hội ở Việt Nam:

– Trước năm 1998 : bảo hiểm xã hội hoạt động theo cơ chế phụ thuộc.Quỹ nằm trong ngân sách nhà nước
. Đối tượng tham gia và hưởng bảo hiểm xã hội trong giai đoạn này là công chức & những người làm việc trong cơ quan nhà nước

.Mức phí bảo hiểm xã hội trong giai đoạn này : NLĐ 1% . người sử dụng lao động : 3,7%

– Giai đoạn cuối 1998 đến đầu 1995: các chế độ đc thay đổi lại

– Giai đoạn từ 1995 đến nay:

READ:  Trình bày Trách nhiệm của Chính phủ về việc đảm bảo an sinh xã hội?

– 19/1/1996 :chính phủ ban hành nghị đinh 12CP về điều lệ bảo hiểm xã hội

– 26/1/1995: chính phủ ban hành nghị đinh 19CP về việc thành lập cơ quan bảo hiểm xã hội Vi ệt nam

Chặng đường 13 năm từ khi mới được thành lập đến nay (1995 – 2008) chưa dài, song bảo hiểm xã hội Việt Nam đã thực sự có những đóng góp quan trọng đối với xã hội, với tư cách là hình thức chia sẻ rủi ro hữu hiệu, tạo ra nguồn thu nhập thay thế, góp phần bảo đảm an toàn cuộc sống cho người lao động. Cùng với việc gia tăng quy mô, “độ bao phủ” các đối tượng tham gia, bảo hiểm xã hội càng khẳng định là trụ cột quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội, hướng dần sự phục vụ tới từng người dân

Bảo hiểm xã hội (bao gồm cả BHYT) giữ vị trí trọng tâm của hệ thống an sinh xã hội, liên quan trực tiếp tới lực lượng lao động sản xuất của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Việc duy trì cho được khoảng cách giàu nghèo hợp lý trong xã hội, đòi hỏi Nhà nước cũng có vai trò to lớn trong việc phân phối lại thu nhập xã hội bằng các giải pháp, chính sách tổng thể và một mô hình tổ chức an sinh xã hội phù hợp.

Cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay được thành lập với cơ chế quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam được quản lý riêng độc lập với NSNN là mô hình tổ chức quản lý phù hợp với nền kinh tế thị trường. Do bảo hiểm xã hội phát triển và mở rộng các đối tượng lao động tham gia bảo hiểm bao gồm người làm công ăn lương trong cả khu vực công và khu vực tư đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đời sống người dân, đảm bảo công bằng xã hội