Tại sao nói chính sách Bảo hiểm xã hội là bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội mỗi quốc gia.

Chính sách Bảo hiểm xã hội là những chủ trương, đường lối để giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến một tầng lớp đông đảo người lao động được nhà nước quan tâm có mối quan hệ biện chứng với chính sách kích thích phát triển kinh tế từng thời kỳ.

Chính sách Bảo hiểm xã hội là bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế- xã hội của Nhà nước. Trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau, chính sách Bảo hiểm xã hội  được NN đề ra và thực hiện phù hợp với mực tiêu thống nhất về đường lối, chính  sách kinh tế và xã hội đối với người lao động.

Chính sách Bảo hiểm xã hội được thiết lập trên cơ sở cơ cấu kinh tế- xã hội, các đk kinh tế- xã hội cụ thể như sau:

-Cs Bảo hiểm xã hội được thiết lập dựa vào đường lối chính trị của NN. Chính sách Bảo hiểm xã hội của mỗi QG luôn gắn liền với chế độ chính trị- xã hội, phụ thuộc vào đường lối quan điểm chính trị của quốc gia đó.

-Căn cứ vào cơ sở khoa học của Bảo hiểm xã hội. Các cơ sở khoa học của Bảo hiểm xã hội như: cơ sở nhân khẩu học, cơ sở quy luật số lớn, các cơ sở phân định trách nhiệm của người lao động, người sd lao động luôn là yếu tố quan trọng khi xây dựng các chính sách Bảo hiểm xã hội

-Xây dựng cs Bảo hiểm xã hội phải phù hợp với khả năng của nền kinh tế. Khi xây dựng các chính sách Bảo hiểm xã hội cần phải cân nhắc giữa các chính sách đưa ra với khả năng đáp ứng của nền kinh tế. Quan hệ giữa cs Bảo hiểm xã hội và khả năng của nền kinh tế phải được đánh giá trên các cấp độ vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô quan hệ này phải được tính đến khi xây dựng chính sách Bảo hiểm xã hội nghĩa là: cần xem xét các chính sách đó có tạo ra sự công bằng cho người lao động; có phù hợp với khả năng của nền kinh tế hay không? ở tầm vi mô việc xây dựng chính sách Bảo hiểm xã hội cần phải xác định nguồn tài chính Bảo hiểm xã hội lấy từ đâu, mức đóng, mức hưởng như thế nào là phù hợp để đảm bảo an toàn quỹ Bảo hiểm xã hội.

-Căn cứ vào đk lịch sử, chính sách Bảo hiểm xã hội dù có hợp lý đến đâu cũng chỉ phát huy tác dụng, có hiệu lực và hiệu quả trong giai đoạn nhất định, nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể của đất nước, tránh tình trạng chính sách Bảo hiểm xã hội bị lạc hậu hay đi quá xa.

Thứ nhất, thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội nhằm ổn định cuộc sống người lao động, trợ giúp người lao động khi gặp rủi ro: ốm đau, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp… sớm trở lại trạng thái sức khỏe ban đầu cũng như sớm có việc làm….

Theo phương thức Bảo hiểm xã hội người lao động khi có việc làm và khỏe mạnh sẽ đóng góp một phần tiền lương, thu nhập vào quỹ dự phòng. Quỹ này hỗ trợ người lao động khi ốm đau, tai nạn, lúc sinh đẻ và chăm sóc con cái, khi không làm việc, lúc già cả để duy trì và ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Do vậy, hoạt động Bảo hiểm xã hội một mặt, đòi hỏi tính trách nhiệm cao của từng người lao động đối với bản thân mình, với gia đình và đối với cộng đồng, xã hội theo phương châm “mình vì mọi người, mọi người vì mình” thông qua quyền và nghĩa vụ; mặt khác, thể hiện sự gắn kết trách nhiệm giữa các thành viên trong xã hội, giữa các thế hệ kế tiếp nhau trong một quốc gia, tạo thành một khối đoàn kết thống nhất về quyền lợi trong một thể chế chính trị – xã hội bền vững.

Người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm đóng góp Bảo hiểm xã hội cho người lao động. Nếu theo nhìn nhận ban đầu, việc đóng góp Bảo hiểm xã hội cho người lao động có thể sẽ làm tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng thực chất, về lâu dài, phương thức Bảo hiểm xã hội đã chuyển giao trách nhiệm bảo vệ người lao động khi gặp rủi ro về phía xã hội, rủi ro được điều tiết trên phạm vi toàn xã hội, giúp cho chủ sử dụng lao động bớt những khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp, yên tâm tổ chức sản xuất, kinh doanh.

READ:  Để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu trong thời gian tới Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp nào?

Trong hoạt động Bảo hiểm xã hội Nhà nước tiến hành xây dựng chính sách, chế độ, tổ chức triển khai và giám sát quá trình thực hiện nhằm thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của người tham gia Bảo hiểm xã hội. Như vậy nhà nước giữ vai trò quản lý về Bảo hiểm xã hội, bảo hộ cho quỹ Bảo hiểm xã hội mà không phải chi từ ngân sách nhà nước cho lĩnh vực này. Mặt khác, chính sách Bảo hiểm xã hội giúp Nhà nước điều tiết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ mô, bảo đảm cho nền kinh tế liên tục phát triển và giữ gìn ổn định xã hội trong từng thời kỳ cũng như trong suốt quá trình.

Thứ hai, thực hiện tốt chính sách Bảo hiểm xã hội nhất là chế độ hưu trí, góp phần ổn định cuộc sống của người lao động khi hết tuổi lao động hoặc không còn khả năng lao động.

Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, người lao động tham gia đóng Bảo hiểm xã hội từ 20 năm trở lên khi hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động thì được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp hằng tháng. Với nguồn lương hưu và trợ cấp Bảo hiểm xã hội, người cao tuổi có thu nhập ổn định, bảo đảm cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Hiện nay, cả nước đã có khoảng 2,5 triệu người hết tuổi lao động đang hưởng lương hưu và trợ cấp Bảo hiểm xã hội hằng tháng với số tiền chi trả từ quỹ Bảo hiểm xã hội hàng nghìn tỉ đồng mỗi tháng.

Trong nhiều năm qua, kể từ khi chính sách Bảo hiểm xã hội được thực hiện, cùng với sự phát triển kinh tế, mức lương hưu cũng không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp với mức sống chung của toàn xã hội. Vào các thời điểm tăng mức lương tối thiểu chung cũng như việc xem xét chỉ số giả cả, Nhà nước đều có sự điều chỉnh lương hưu một cách hợp lý. Mức lương hưu không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp với mức sống chung toàn xã hội tại thời điểm hưởng lương hưu đã bảo đảm cuộc sống của người nghỉ hưu, tạo sự an tâm, tin tưởng của người về hưu sau cả cuộc đời lao động.

Sở dĩ có được điều kiện nâng cao và mở rộng các quyền lợi của Bảo hiểm xã hội là do phương thức tài chính ở nước ta được hình thành theo cách lập quỹ và có sự tính toán điều chỉnh quan hệ đóng – hưởng trong phạm vi toàn xã hội theo những dự báo về các yếu tố kinh tế – xã hội trong tương lai. Theo phương thức lập quỹ, người lao động, trước hết phải có trách nhiệm với bản thân trong việc đóng góp lập quỹ Bảo hiểm xã hội, dành dụm cho mai sau, tránh tình trạng đẩy toàn bộ gánh nặng chi trả cho thế hệ mai sau. Mặt khác, với việc lập quỹ Bảo hiểm xã hội đã gắn kết được trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp trong cùng chính sách Bảo hiểm xã hội. Chính sự phát triển với tốc độ nhanh của nền kinh tế nước ta của thế hệ đương thời theo truyền thống “con hơn cha” góp phần cải thiện rõ nét mức sống của người về hưu đã có đóng góp một phần trước đây. Vì vậy, nguồn quỹ Bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo hộ và phát triển cân đối bền vững sẽ là cơ sở để cải thiện không ngừng các chế độ Bảo hiểm xã hội nói chung và đời sống của người nghỉ hưu nói riêng.

Thứ ba, thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội góp phần ổn định và nâng cao chất lượng lao động, bảo đảm sự bình đẳng về vị thế xã hội của người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy sản xuất phát triển.

Chính sách Bảo hiểm xã hộihoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản “đóng – hưởng” đã tạo ra bước đột phá quan trọng về sự bình đẳng của người lao động về chính sách Bảo hiểm xã hội.

Khi đó, mọi người lao động làm việc ở các thành phần kinh tế, các ngành nghề, địa bàn khác nhau, theo các hình thức khác nhau đều được tham gia thực hiện các chính sách Bảo hiểm xã hội. Phạm vi đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội không ngừng được mở rộng đã thu hút hàng triệu người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, khuyến khích họ tự giác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi Bảo hiểm xã hội, BHYT, tạo sự an tâm, tin tưởng và yên tâm lao động, sản xuất, kinh doanh.

READ:  Trình bày các tiêu chí phản ảnh chất lượng tăng trưởng kinh tế

Người lao động tham gia Bảo hiểm xã hội khi ốm đau sẽ được khám chữa bệnh và được quỹ Bảo hiểm xã hội chi trả phần lớn chi phí; được nhận tiền trợ cấp khi ốm đau không đi làm được, được nghỉ chăm con ốm; khi thai sản được nghỉ khám thai, được nghỉ khi sinh đẻ và nuôi con, được nhận trợ cấp khi sinh con và trợ cấp thai sản; khi bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp sẽ được nhận phần trợ cấp do giảm khả năng lao động do tai nạn, bệnh nghề nghiệp gây ra. Ngoài ra, người lao động còn được nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau, sinh đẻ hay điều trị thương tật nhằm nâng cao thể lực. Khi người lao động mất việc làm sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp và được giới thiệu việc làm hoặc gửi đi học nghề để có cơ hội tìm kiếm việc làm mới.

Với những quyền lợi của người lao động khi tham gia Bảo hiểm xã hội, BHYT đã góp phần thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, giữ gìn và nâng cao thể lực cho người lao động trong suốt quá trình lao động, sản xuất. Việc được tham gia Bảo hiểm xã hội, BHYT khi đang làm việc và được hưởng lương hưu sau này đã tạo ra cho người lao động sự phấn khởi, tâm lý ổn định, an tâm vào việc làm mà họ đang thực hiện.

Thực tế là nhiều doanh nghiệp, khi tuyên truyền quảng cáo tuyển dụng lao động, thì tiêu thức được tham gia Bảo hiểm xã hội, BHYT cũng là một quyền lợi quan trọng thu hút được nhiều lao động.

Sự an tâm của người lao động cũng như việc bảo vệ sức lao động của họ thông qua chính sách Bảo hiểm xã hội, BHYT đã trở thành một chính sách thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy sản xuất phát triển.

Thứ tư, Bảo hiểm xã hội, BHYT là một công cụ đắc lực của Nhà nước, góp phần vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời giảm chi cho ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội bền vững.

Trên thị trường lao động, “tiền lương là giá cả sức lao động” được hình thành tự phát căn cứ vào quan hệ cung cầu, vào chất lượng lao động cũng như các điều kiện khung mà trong đó Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý thông qua những quy định về mức lương tối thiểu và những điều kiện lao động cần thiết. Quá trình hình thành tiền lương theo thỏa thuận giữa chủ sử dụng lao động và người lao động là sự phân phối lần đầu và phân phối trực tiếp cho từng người lao động. Do vậy, người lao động có tay nghề cao, có nghề nghiệp thích ứng với nhu cầu của xã hội sẽ có thu nhập cao. Đó là sự hợp lý và khuyến khích làm giàu chính đáng.

Sau khi đã thực hiện thuế thu nhập, Nhà nước sẽ tiến hành phân phối lại thông qua chính sách Bảo hiểm xã hội, BHYT. Khi đó, người có năng lực hơn, nhận được tiền lương cao hơn sẽ đóng góp nhiều hơn cho xã hội để trợ giúp những người “yếu thế” hơn trong xã hội. Một bộ phận lao động khác do gặp phải rủi ro trong cuộc sống như về sức khỏe, về năng lực, về hoàn cảnh gia đình… có việc làm và thu nhập thấp hơn sẽ nhận được các quyền lợi Bảo hiểm xã hội, BHYT để duy trì cuộc sống. Bên cạnh đó, chế độ hưu trí, tử tuất với nguyên tắc tương đồng giữa mức đóng và mức hưởng đã khuyến khích người lao động khi làm việc có thu nhập cao và đóng góp ở mức cao, với thời gian dài thì sau này sẽ được hưởng tiền lương hưu với mức cao, an tâm nghỉ ngơi khi tuổi già.

Bảo hiểm xã hội đều được thực hiện theo nguyên tắc đóng – hưởng, có nghĩa là người tham gia đóng góp vào quỹ Bảo hiểm xã hội, BHYT thì người đó mới được hưởng quyền lợi về Bảo hiểm xã hội, BHYT. Như vậy, nguồn để thực hiện chính sách là do người lao động đóng góp, Nhà nước không phải bỏ ngân sách ra nhưng vẫn thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội lâu dài.