Truyền thuyết là gì? Truyền thuyết là tên gọi dùng để chỉ một nhóm những sáng tác dân gian truyền miệng nhằm lý giải một số hiện tượng tự nhiên, sự kiện lịch sử. Đặc điểm chung của chúng thể hiện các yếu tố kỳ diệu, huyễn tưởng, nhưng lại được cảm nhận là xác thực, diễn ra ở ranh giới giữa thời gian lịch sử và thời gian thần thoại, hoặc diễn ra ở thời gian lịch sử.
I. KHÁI NIỆM VỀ TRUYỀN THUYẾT
1. Khái niệm
Truyền thuyết là những truyện kể truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại.
2. Phân biệt truyền thuyết với thần thoại và cổ tích
a. Truyền thuyết và thần thoại
Tiêu chí nhân vật chính: Nhân vật chính trong thần thoại là thần hoặc bán thần. Nhân vật chính trong truyền thuyết giàu nhân tính hơn.
Tiêu chí nội dung: Thần thoại nêu lên khát vọng hiểu biết, khám phá những hiện tượng của vũ thụ, loài người mang tính suy nguyên. Truyền thuyết thuyết tập trung vào những vấn đề xã hội.
Thời kỳ ra đời: Thần thoại ra đời từ thời nguyên thủy. Truyền thuyết ra đời ở xã hội giai đọan sau.
b.Truyền thuyết và cổ tích
Về cốt truyện và nhân vật: Ðặc điểm nổi bật của cốt truyện và nhân vật cổ tích là tính hư cấu, tưởng tượng. Cốt truyện và nhân vật truyền thuyết có xu hướng bám sát lịch sử.
Về nội dung: Truyện cổ tích phản ánh những xung đột trong gia đình và xã hội, đặc biệt là trong gia đình phụ quyền và xã hội phong kiến. Truyền thuyết hướng về đề tài lịch sử, nhân vật lịch sử.
Về kết thúc truyện: Truyện cổ tích kết thúc có hậu hoặc không có hậu , nhân vật chính mãi mãi hạnh phúc hoặc trở thành biểu tượng của nhân phẩm. Truyền thuyết thường kết thúc mở, nhân vật vẫn tồn tại và sẽ tham gia vào những sự kiện mới của lịch sử.
3. Phân kỳ truyền thuyết
Cơ sở để phân kỳ truyền thuyết : Dựa vào sự phân kỳ lịch sử xã hội và đặc điểm nội dung, nghệ thuật của truyền thuyết. Cần chú ý phân biệt truyền thuyết về một thời kỳ và truyền thuyết của một thời kỳ. Việc xác định truyền thuyết về một thời kỳ có thể dựa vào đặc điểm nội dung và nghệ thuật của tác phẩm truyền thuyết. Muốn biết truyền thuyết của một thời kỳ nào cần phải biết thời điểm ra đời của tác phẩm. Ðiều nầy là rất khó đối với chúng ta ngày nay.
Truyền thuyết Việt Nam gồm các thời kỳ sau : Truyền thuyết về Họ Hồng Bàng và thời kỳ Văn Lang, truyền thuyết về thời kỳ Âu Lạc và Bắc Thuộc, truyền thuyết về thời kỳ phong kiến tự chủ, truyền thuyết về thời kỳ Pháp thuộc.
II. NỘI DUNG TRUYỀN THUYẾT
1.T ruyền thuyết về họ Hồng Bàng và thời kỳ Văn Lang
Họ Hồng Bàng mở đầu thời kỳ lập quốc của dân tộc ta kéo daì 2622 năm (2879tcn-258tcn) , từ Kinh Dương Vương đến Lạc Long Quân và các đời Hùng Vương. Theo Ðaị Việt sử ký toàn thư của sử thần Ngô Sĩ Liên, cho đến thời vua Hùng cương vực nước Văn Lang traỉ rộng , phía đông giáp Nam Haỉ, phía tây đến Ba Thục, phía bắc đến hồ Ðộng Ðình, phía nam giáp nước Hồ Tôn ( nước Chiêm Thành).
Truyền thuyết về Họ Hồng Bàng là hệ thống truyền thuyết mang tính chất sử thi, phản ánh không khí anh hùng ca thời Hùng Vương dựng nước và trình độ khá văn minh của người Văn Lang. Các nhân vật Vua Hùng, Sơn Tinh ( Thần Tản Viên) Phù Ðổng Thiên Vương là những biểu tượng của quốc gia Văn Lang trong thời kỳ đang lớn mạnh Hình tượng Lạc Long Quân-Âu Cơ có ý nghĩa khái quát hoá cho công cuộc chinh phục tự nhiên mở mang bờ coĩ của người Văn Lang.
Những truyền thuyết tiêu biểu trong chuỗi truyền thuyết về thời các vua Hùng : Lạc Long Quân – Âu Cơ, Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thánh Gióng.
Nhân vật Hùng Vương không phải là nhân vật chính của từng truyện riêng nhưng lại là nhân vật nổi bật trong hệ thống truyện. Vua Hùng ( Hùng Vương thứ sáu, Hùng Vương thứ mười tám, Hùng Vương nói chung) là người đứng đầu quốc gia,vị vua có uy tín với con người, tiếp cận với thần linh, là biểu trưng của sức mạnh và tinh thần Văn Lang.
Yếu tố thần kỳ còn khá đậm đặc trong truyền thuyết thời kỳ nầy. Tuy nhiên, từ Lạc Long Quân đến Thánh Gióngphương pháp sáng tác thần thoại đã thay đổi một mức độ nhất định: Vai trò của thần linh cũng như tính chất siêu nhiên giảm xuống trong khi tính chất trần thế tăng lên.Lạc Long Quân là một vị thần, cuộc hôn phối của Lạc Long quân với Âu Cơ cũng mang tính chất phi thường. Khác với Lạc Long Quân, cho dù nhân vật Thánh Gióng còn mang những nét thần kỳ nhưng vẫn gần guĩ với con người bình thường( có mẹ, sinh ra ở làng Phù Ðổng, ăn cơm, cà) Mặt khác, từ Lạc Long Quân đến Thán h Gióng, truyền thuyết thời kỳ nầy cũng có sự thay đổi về đề taì, chủ đề: từ đề taì đấu tranh chinh phục thiên nhiên đến đề taì đấu tranh chống xâm lược. Nói tóm laị , từ ” Sơn Tinh Thuỷ Tinh ” cho tớiThánh Gióng, truyền thuyết thời kỳ Văn Lang đã có sự biến đổi.
2. Truyền thuyết về thời kỳ Âu Lạc và Bắc Thuộc
Nước Âu Lạc của An Dương Vương tồn tại khoảng 50 năm (257tcn-208tcn) .Sở dĩ ta gắn thời kỳ Âu Lạc vào thời Bắc thuộc vì lịch sử Âu Lạc cũng như truyền thuyết An Dương Vương mang tính chất bi hùng. Thời kỳ Bắc thuộc hơn 10 thế kỷ(207tcn-938) là thời kỳ bị xâm lược và chiến đấu dành độc lập của dân tộc ta.Trong hơn một ngàn năm bị nô lệ, dân tộc ta đã không bị đồng hoá hay bị diệt vong như nhiều dân tộc trên thế giới, đó là điều hết sức phi thường.
Truyền thuyết thời kỳ này đã phản ánh và chứng minh được sức sống và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Nhờ có sức sống mãnh liệt và bản lĩnh cao, dân tộc ta đã vượt qua thời kỳ bị uy hiếp và thử thách gay go, lâu dài.
Truyền thuyết phản ánh cả lịch sử chiến thắng và lịch sử chiến bại của dân tộc. Nhiều truyền thuyết thời kỳ nầy mà trong đó truyện An Dương Vương là tiêu biểu, có kết cấu hai phần: phần đầu là lịch sử chiến thắng, phần sau là lịch sử chiến bại.
Truyền thuyết phản ánh được tất cả các cuộc vũ trang khởi nghĩa chống xâm lược thời kỳ Bắc Thuộc (Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí …).
Truyền thuyết thời kỳ này cho thấy tác giả dân gian nhận thức được dân tộc, nhận thức được bản chất kẻ thù ( chẳng hạn như bản chất tàn bạo, âm mưu thâm độc của các tên quan đô hộ như Tô Ðịnh, Mã Viện, Cao Biền…)ì và ngày càng đi sát lịch sử hơn (Bám sát lịch sử về nội dung cũng như hình thức biểu hiện : tên người, sự kiện …). Yếu tố thần kỳ tuy có giảm so truyền thuyết giai đoạn trước nhưng vẫn còn khá đậm đặc trong truyền thuyết giai đoạn nầy( An Dương Vương được Rùa Vàng giúp trừ ma quỷ ở núi Thất Diệu…,Hai Bà Trưng bay lên trời…)
3. Truyền thuyết về thời kỳ phong kiến tự chủ
Về phương diện lịch sử, thời kỳ phong kiến tự chủ từ TK X đến TKXIX có những nét lớn như sau:
Từ TK.X đến TK.XV: giai cấp phong kiến Việt Nam xây dưng một quốc gia thống nhất,gìn giữ, củng cố nền độc lập dân tộc.
Từ TK. XVI đến TKXIX: sự suy sụp của các triều đại phong kiến và cuối cùng đi đến tan rã quốc gia phong kiến trước thế lực phương Tây.
Trong suốt chặng daì lịch sử nêu trên, dân tộc ta đã làm nên những chiến tích: nhà Trần ba lần đánh tan quân Nguyên-Mông, Lê Lợi quét sạch quân Minh ra khỏi cõi, Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh ở phía Bắc và quân Xiêm ở phía Nam. Bên cạnh đó còn phải kể đến các cuộc nội chiến giữa những tập đoàn phong kiến và các phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình.
Truyền thuyết thời kỳ nầy gồm các nhóm sau đây: Truyền thuyết về anh hùng chống ngoại xâm ( Truyền thuyết về Yết Kiêu, Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi…),truyền thuyết về danh nhân văn hóa (Truyền thuyết về Chu Văn An, Trạng Trình…),truyền thuyết về lịch sử địa danh ( Sự tích Hồ Gươm, Sự tích núi Ngũ Hành…),truyền thuyết về anh hùng nông dân (Truyền thuyết về Chàng Lía, Quận He, Ba Vành…)
So với truyền thuyết thời kỳ trước, yếu tố hoang đường kỳ diệu trong truyền thuyết thời kỳ nầy giảm đi một mức đáng kể. Ðặc biệt, có những truyền thuyết về anh hùng nông dân không có yếu tố thần kỳ(Truyền thuyết về Hầu Tạo, Chàng Lía, Lê Văn Khôi…).
Hai nhóm truyền thuyết nổi bật của thời kỳ này là: truyền thuyết về anh hùng chống ngoại xâm và truyền thuyết về anh hùng nông dân. Nhân vật anh hùng có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dân tộc sâu sắc, giàu lòng thương yêu nhân dân. Ðây là những nhân vật có tài năng phi thường, mang vẻ kỳ vĩ, siêu nhiên.
4. Ý nghĩa của truyền thuyết
Về mặt lịch sư:íTruyền thuyết là cơ sở cho các nhà sử học tham khảo về các giai đoạn lịch sử dân tộc.
Về mặt ý thức xã hộiTruyền thuyết giáo dục lòng yêu nước, tinh thần dân tộc.
Về mặt văn học nghệ thuật: Truyền thuyết là nguồn cảm hứng cho nhà văn, nhà thơ sáng tác.
III. MẤY NÉT VỀ THI PHÁP TRUYỀN THUYẾT
1. Cốt truyện và nhân vật
Truyền thuyết không có kiểu cốt truyện hay như cổ tích. Cốt truyện thường gồm ba phần: hoàn cảnh xuất hiện nhân vật chính, sự nghiệp của nhân vật, chung cục thân thế của nhân vật.
Nhân vật trong truyền thuyết là nhân vật lịch sử được tái tạo. Tác giả dân gian hư cấu, sáng tạo trên nền lịch sử (thường là lý tưởng hóa những sự kiện, con người mà họ ca ngợi)
Nhân vật trong truyền thuyết cũng là hành động của nó như trong cổ tích và có số phận không thể đảo ngược so với sự thật lịch sử. Nhân vật chính có thể là nhân vật trung tâm của một truyện hoặc một chuỗi truyện.
2. Lời kể trong truyền thuyết
Nhìn chung, lời kể trong truyền thuyết Việt Nam chưa có giá trị nghệ thuật cao như trong cổ tích và sử thi. Lời kể của một số truyền thuyết rút ra từ thần tích không còn giữ được chất dân gian.
Đọc thêm:
Đặc điểm, sự phân lập thể loại
Tại những truyền thống văn hóa khác nhau về loại hình, khái niệm truyền thuyết có thể được mô tả những hiện tượng không hoàn toàn giống nhau, và liên hệ một cách khác nhau với các thể loại dân gian khác, kể cả thần thoại.
Trong văn hóa châu Âu, thường người ta chia hai loại: legend và trandition, tuy cùng mang ngữ nghĩa là lời truyền tụng, lời tục truyền, truyền thuyết. Legend thiên về phía gắn với các nhân vật của lịch sử linh thiêng như các thánh của Kitô giáo hoặc Hồi giáo. Trandition gắn với các nhân vật trần thế và không buộc phải có yếu tố thần kỳ. Tuy vậy, sự phân chia này chỉ phù hợp với những truyền thống trong đó tôn giáo thống trị đã cải biến các hệ thống thần thoại có sớm hơn (chỉ xảy ra tại các nền văn hóa Kitô giáo và Hồi giáo)[1], và rất khó thực hiện với các truyền thống trong đó tôn giáo mang tính thế giới (như Phật giáo) vốn không bác bỏ các hệ thống thần thoại có sớm hơn. Bên cạnh đó, sự phân chia này chỉ cũng khó làm đối với những hệ thần thoại đa thần chưa trải qua biến đổi căn bản nào hoặc những truyền thống trong đó lịch sử linh thiêng không phân lập với thế tục.
Trên một vài dấu hiệu khác biệt có thể rất nhỏ, sự phân lập truyền thuyết với các thể loại khác cũng có căn cứ nhất định. Truyền thuyết chung với thần thoại ở dấu hiệu về niềm tin và sự hiện diện của yếu tố thần kỳ. Truyền thuyết cũng phân biệt với thần thoại có thể ở phương diện sở hữu ngôn bản của bộ lạc hoặc toàn dòng họ. Thần thoại kể về nguồn gốc cõi đời và cõi người thì bất cứ một thành viên nào trong bộ lạc cũng có quyền kể lại; còn những truyền ngôn về các biến cố mở đầu dòng họ thì có thể thuộc sở hữu của các thành viên dòng họ. Bên cạnh đó, ở các nền văn hóa chưa có sự biến động về hệ thống tôn giáo, truyền thuyết có thể phân lập với thần thoại về quy chế, việc có hay không có liên hệ với sự thờ phụng, về nhân vật truyền thuyết v.v. Về tổng thể, so với thần thoại thì truyền thuyết kém linh thiêng hơn[1] và thường mô tả những sự kiện xảy ra muộn hơn. Sự lệ thuộc về nguồn gốc (biến sinh) của truyền thuyết với thần thoại có thể được xác định, tuy không phải thần thoại là nguồn cốt truyện duy nhất của truyền thuyết. Truyền thuyết nằm ở ranh giới giữa thần thoại và các ghi chép mô tả lịch sử.
Một số nhóm truyền thuyết
Truyền thuyết liên quan đến Kitô giáo hoặc ít nhiều tái hiện các cốt truyện của thời tiền Kitô giáo, là một trong những phương tiện tái mã hóa các biểu tượng Kitô giáo trong các tượng trưng Kitô giáo. Chẳng hạn hạnh các thánh (hagiographie) thực chất là những văn bản kém thiêng hơn so với lời thiêng, được phép hòa trộn với các môtip phi Kitô giáo, kể cả việc biến đổi các thánh thành một kiểu tương tự như trong điện thờ đa thần giáo. Hạnh các thánh tương tự như mọi loại truyền thuyết, trong khi hướng tới các thể loại lịch sử, đã đồng thời ứng với ngày kỷ niệm các thánh tính theo lịch. Từ đó cho phép gắn hai chu trình ngày lễ trong năm (gồm chu kỳ Kitô giáo và chu kỳ đa thần giáo) thành một chu kỳ thời gian nghi lễ.
Truyền thuyết Kitô giáo còn có một nhóm riêng trong đó không chỉ có những nhân vật của Cựu ước mà còn có cả thần và quỷ. Nhóm truyền thuyết này đã bổ sung tính lịch sử cho hệ thần thoại Kitô giáo bằng những yếu tố thần thoại tiền Thiên Chúa. Các hành động trong loại truyền thuyết này cũng được chuyển vào cái thời gian, mà đối với Kitô giáo nó thực hiện chức năng thời gian thần thoại (tức thời gian của Cựu ước và Phúc âm), thậm chí xâm nhập cả vào thời gian Kinh thánh (thời giai lịch sử linh thiêng), và vào cả thời gian thần thoại đích thực kể về cuộc đấu tranh của những người khổng lồ, lịch sử sáng thế v.v.
Bên cạnh các truyền thuyết với hành động diễn ra trong thời gian lịch sử hoặc thời gian tôn giáo, châu Âu còn biết đến loại hình truyền thuyết diễn ra trong thời gian trừu tượng, bất định, tương tự thời gian của truyện ngụ ngôn hoặc truyện cổ tích. Đó là kiểu truyền thuyết mô tả quan hệ giữa các thánh với con người. Một số tiết đoạn của thể loại truyền thuyết này có thể được chuyển hóa thành cổ tích.
Cũng cần kể đến các truyền thuyết về những cư dân tiền bối tại các địa phương mang cùng một truyền thống văn hóa. Các truyền thuyết này thường miêu tả những sinh thể khác con người, đồng thời gắn với ranh giới giữa tiền lịch sử và lịch sử. Về phương diện nào đó, loại truyền thuyết này tương đồng về loại hình với các truyền thuyết kể về khởi thủy dòng họ hoặc bộ lạc.
Một số truyền thuyết khác, vượt qua ranh giới nói trên và đặt thời gian lịch sử vào tộc người, thể hiện chức năng của các thể loại lịch sử hoặc giả lịch sử. Các truyền thuyết này tiếp cận ở mức độ đáng kể thời gian của cộng đồng cư dân mang truyền thống văn hóa ấy thậm chí vượt quá thời gian này, kéo dài thời gian lịch sử thành thời gian thần thoại.
Bên cạnh đó còn có loại thể truyền thuyết miêu tả những xứ sở và xã hội không tưởng, thể hiện sự tương quan không chỉ với lịch sử mà còn với tình thế xã hội cụ thể. Những truyền thuyết này miêu tả các bức tranh không tưởng về tương lai và những nhân vật không bị linh thiêng hóa, họ thực hiện chức năng khôi phục lẽ phải đã bị phá bỏ, xác lập một phúc lợi không tưởng (tức cái vốn là chức năng của nhân vật văn hóa đương thời được “dịch” ra thành ngôn ngữ của các quan hệ xã hội muộn hơn).