Ngày xửa ngày xưa, tại Cao Bằng có một người trẻ tuổi tên là Triều, theo nghề chài lưới nay chỗ này mai chỗ khác. Gia sản cũng chỉ có độc một bộ đồ làm nghề, nhưng được cái tính anh thương người, nên mỗi khi đánh được nhiều cá, anh đều đem đi đổi lấy gạo rồi phân phát cho mấy người nghèo khó anh gặp trên đường. Vì thế mà mọi người trong vùng đều vô cùng yêu quý anh.
Sau một thời gian dài ở Cao Bằng, Triều dời sang Thái Nguyên, anh vẫn tiếp tục nghề đánh cá của mình. Khi ở đây, anh cũng vẫn tiếp tục giúp đỡ mọi người mà không nề hà điều gì. Một ngày nọ, anh đi đánh cá, nhưng rủi thay ngày đó anh chẳng bắt được con nào. Khi về anh bắt gặp một cụ già đang nằm co quắp, cả người run lẩy bẩy ở gốc cây xem đường. Thương người, anh liền cởi chiếc áo ấm duy nhất mình đang mặc rồi đem nó đắp cho cụ già kia.
Một thời gian sau, trong một ngày anh đang ở giữa sông cất vó, tự dưng Triều lại nghe thấy tiếng đàn từ đâu vọng xuống. Tiếng đàn khiến anh dừng tay mà say sưa nghe.
Ngày hôm sau, trong lúc quăng chài, anh lại được nghe tiếng đàn kia vọng từ trên núi cũ xuống. Thấy lạ nên anh liền thu dọn đồ đạc, quyết tâm leo núi để tìm người gảy ra tiếng đàn kia. Có tiếng đàn dẫn lối, anh cứ thế mà vạch đám cỏ lau bước đi. Sau cùng đi đến chỗ bãi rộng, ở đó có một ông cụ già râu tóc bạc phơ ngồi trên một phiến đá. Anh thấy cụ già vẫn đang mải mê lướt tay trên dây đàn, tạo ra những âm thanh tuyệt vời mà không hay biết có người xuất hiện.
Triều bỗng nhận ra khuôn mặt người này rất giống cụ già mà không lâu trước đây anh gặp nơi gốc cây. Khi tiếng đàn ngừng lại, anh mới tiến đến mà hỏi cụ già:
– Thưa cụ, cụ có thể nói cho cháu biết cụ là ai, tại sao lại ngồi nơi đây mà đánh đàn?
Cụ già nhìn anh hiền hậu, sau đó liền chỉ vào phiến đá ngay trước mặt mà nói:
– Ta ngồi đây đợi con! Con leo núi mệt lắm không? Hãy ngồi đây nghỉ ngơi một lát đi.
Triều đưa tay nhận lấy chén nước ông cụ đưa cho, lại nghe hỏi:
– Con còn nhớ ta không?
Triều liền đáp:
– Có! Cụ là người ngày đó nằm gốc đa ở đầu làng đúng không?
Cụ già cười trả lời:
– Đúng! Hôm ấy vì nhường manh áo cho ta mà con phải mình trần. Trên đời thật ít người như vậy. Vì thế ta muốn tặng cho con một cái áo khác để đền bù cho con.
Ông cụ nói xong liền cởi lấy chiếc áo mình đang mặc rồi quàng cho Triều, sau đó thì biến mất luôn.
Từ ngày mang áo, Triều biết được chiếc áo mà Tiên ông cho không phải chiếc áo bình thường, nó chính là bảo vật, chỉ cần mặc nó sẽ giúp người ta có phép tàng hình. Mỗi khi mặc áo vào người là không ai biết được anh đang ở trước mặt họ.
Thấy thế Triều mừng lắm, anh liền đi ngao du khắp mọi nơi. Anh hay mặc áo, sau đó đến chỗ mấy bọn phú hộ giàu có, đường đường chính chính đi vào mà lấy tiền lấy gạo rồi đem chia cho mấy người nghèo khó ngoài kia. Anh cũng kín đáo mà trị tội mấy kẻ bất lương hay bạc ác mà mình gặp.
Bên vệ đường, những người luôn sống cơ cực nằm vạ vật khắp nơi mà than thở, bỗng nhiên thấy xuất hiện trước mặt là những quan tiền. Còn có mấy tên quan gian ác đang đánh người ngay chính công đường, tự dưng bị roi quất vào lưng rõ đau, nhưng tìm đi tìm lại vẫn chẳng thấy ai cả. Sự việc như vậy xảy ra khắp các vùng, kẻ mừng, người lo, nhưng ai ai cũng linh tính rằng đó là do trời phật có mắt hiển linh.
Triều cứ như vậy mà đi hết nơi này đến nới khác, vừa giúp đỡ người gặp cảnh nghèo khó, vừa trừng trị bọn tham quan gian ác. Một ngày kia, anh tìm đường đến kinh kinh kì. Khoác áo tàng hình lên người, thế là anh thỏa thích mà đi khắp nơi ngắm nghía mà không lo bị bắt.
Anh vào nhà bọn tham quan quyền quý, rồi lại ngang nhiên ra vào nơi cung cấm mà vốn từ xưa không một kẻ nghèo khó nào được phép bước chân vào. Vì thấy khắp nơi phố phường, dân nghèo nhan nhản nên anh lẻn vào trong kho của vua, khuân của ra để phân phát cho mọi người. Vì vậy kho công luôn hao hụt, quan quân nhiều lần tìm kiếm nhưng không thể tìm ra thủ phạm. Và khắp nơi ở kinh đô xuất hiện tin đồn là có tiên hiển linh cứu giúp dân nghèo đói khổ, trị tội kẻ gian, tiên ở mọi nơi nhưng không bao giờ lộ diện.
Triều thì vẫn ngày ngày đi đây đó cứu dân nghèo dân khó, luôn tâm niệm đó là bổn phận và trách nhiệm của mình, không một chút băn khoăn nghĩ đến chuyện được người đời báo đáp. Những việc anh làm khiến bọn giàu có sợ hãi biết bao khi tiền tự dưng không cánh bay đi, dù cho khắp mọi nơi đều có người người canh gác phòng bị.
Nhưng một ngày, khi anh trừng trị tên có quyền có thế cậy mình mà đánh người vô tội, sau đó vì nhiều người hầu kẻ hạ ập vào nên anh vội vàng bỏ đi. Vô tình chiếc áo mắc vào gai tre bên bờ, rách mất một mảng. Sợ để nguyên như vậy sẽ bị lộ nên anh kiếm một mảnh giẻ mà vá lại chỗ rách. Sau vẫn tiếp tục ra vào cung vua lấy bạc chia cho dân nghèo.
Thấy kho bạc của mình ngày ngày thêm hao hụt thì nhà vua lo lắng lắm. Người mới lệnh cho quan coi khố lùng bắt bằng được cái tên trộm cắp bí ẩn kia, nếu không thì bọn chúng phải chịu tội. Nhưng đám quan lính nhiều lần rình bắt nhưng chẳng thu hoạch được gì cả. Mà tiền trong kho vẫn cứ ngày một vơi. Sau đó chúng đành sai người đan một cái lưới để làm bẫy chụp mấy thứ đáng nghi.
Ngày hôm đó, trong lúc canh gác, bọn chúng thấy con bướm lạ màu trắng bay từ ngoài cổng vào kho. Con bướm trắng cứ lượn lờ những nơi đặt bạc, sau đó bình thản mà bay ra. Bọn quan coi kho lập tức chụp lưới vào chỗ con bướm kia, chiếc lưới rất nhạy nên Triều ngay lập tức bị tóm gọn. Vì chiếc áo vá nên Triều bị lộ.
Bọn quan coi kho sau khi bắt được anh liền gô cổ lên cho vua. Nhà vua bèn sai nhốt anh vào ngục, chờ ngày khác xét xử.
Vào thời ấy, vua nước láng giềng vốn có mưu đồ sang nước ta đánh chiếm từ lâu. Đúng thời gian Triều lộ mặt và bị bỏ ngục thì sai cả vạn quân mã kéo sang. Vua nước ta liền cho quân ra chống lại, nhưng trận nào cũng thua, không thể ngăn cản bước tiến như vũ bão của kẻ thù.
Tình hình lúc ấy vô cùng nguy cấp. Tin chiến trận liên tục đưa về khiến kinh thành không ngày nào không náo loạn. Biết tin, Triều nói với bọn lính cai xin cho gặp Vua và cầu đi ra biên thùy diệt giặc để cứu nước. Nghe vậy thì vua mừng lắm, vội kêu người tháo hết xiềng xích, cho gọi tới và nói:
– Ngươi cần có bao nhiêu người?
Anh đáp:
– Thưa bệ hạ, tôi chỉ cần một mình là đủ. Chỉ xin người ban cho tôi thanh gươm mà thôi.
Nhà vua lập tức tháo gươm bên mình ra trao lại cho Triều, còn sắc phong cho anh chức Hộ quốc tướng quân. Không những vậy, còn hạ chiếu ban lệnh quân đội phải hoàn hoàn tuân lệnh anh.
Dân chúng nghèo khổ khắp nơi nghe được tin vua đã tha tội cho anh, còn phong làm tướng quân ra chiến trường đuổi giặc, họ rủ nhau tìm đến xin anh cho theo cùng. Thấy mọi người nhiệt tình, Triều sắp xếp họ thành đội ngũ chỉnh tề rồi cùng nhau tiến về nơi chiến trận.
Khi tới vùng mà quân giặc chiếm đóng. Lập tức Triều mặc áo tàng hình của mình vào, tiến thẳng vào trong trại giặc. Ít phút sau, tên tướng giặc đã bị anh chém chết tươi. Cả đám quân thấy tướng bị giết như rắn mất đầu, bọn chúng bỏ lều bỏ trại chạy trốn về nước.
Thấy vậy, đám người theo Triều cứ thế chia nhau chặn đầu khắp nơi tóm gọn đám quân tiên phong, áp giải chúng trở về. Triều cũng làm y như vậy tại các trại khác của quân địch. Không lâu sau, cả đội quân tiên phong của giặc không bị bắt sống thì cũng bị tiêu diệt gọn sạch.
Những toán quân còn lại vô cùng kinh ngạc khi thấy bao nhiêu tướng giỏi của mình đều bị chém đầu, tin rằng Đại Việt là có thần tiên giúp sức. Bọn chúng sợ hãi, không dám tiến lên, vua nước láng giềng không còn cách nào khác đành phải cho chúng rút lui. Vùng biên giới trở lại bình yên. Khắp nơi đều ngợi ca công lao to lớn của Triều.
Khi Triều trở lại kinh thành, nhà vua vô cùng vui mừng, không ngớt lời khen ngợi anh. Sau đó thì ban tước đại thần cho anh, ban đất đai, hơn nữa còn gả công chúa cho anh.
Từ ngày ấy, dân chúng không gọi tên anh mà lại gọi Quan Triều. Hiện nay ở cùng Cao Bằng vẫn còn đền thờ vị Quan Triều này.