Để làm tốt câu trả lời “Phân tích hàng hoá và hai thuộc tớnh của hàng hóa. Ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này đối với Việt Nam hiện nay?” nên tập trung vào 3 ý lớn sau:
1) Phân tích hàng hoá.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có thể thoả món nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua-bán. Khái niệm trên cho ta thấy a) Hàng hoá phải là sản phẩm của lao động, cũn những sản phẩm khụng do lao động tạo ra, dù rất cần thiết cho con người đều không phải là hàng hoá. b) Sản phẩm của lao động nhất thiết phải qua trao đổi mua bán. c) Hàng hoá phải có tính hữu dụng, được con người dùng.
2) Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá.
Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
a) Giá trị sử dụng của hàng hoá do công dụng và thuộc tính tự nhiên của nó quy định.
Công dụng đó nhằm thoả món một nhu cầu nào đó của con người, có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân; cũng có thể là nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất.
Bất cứ hàng hoá nào cũng có một hoặc một số công dụng nhất định và chính công dụng đó làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng; giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần trong quá trỡnh phỏt triển của khoa học, kỹ thuật và lực lượng sản xuất (ngày xưa than đá chỉ được dùng để nấu, sưởi ấm; khi nồi súpde ra đời, than đá được dùng làm chất đốt; về sau nó cũn được dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp hoá chất v.v).
Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, không phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng cho người khác, cho xó hội thụng qua trao đổi, mua-bán. Trong nền kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. Trong bất kỳ một xó hội nào, của cải vật chất của xó hội đều là một lượng nhất định những giá trị sử dụng. Xã hội càng tiến bộ thì số lượng giá trị sử dụng càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.
b) Giá trị của hàng hoá.
Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải bắt đầu nghiên cứu giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.
Ví dụ, 1m vải có giá trị trao đổi bằng 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau về chất, nhưng chúng có thể trao đổi với nhau theo tỷ lệ nào đó là do giữa chúng có một cơ sở chung là cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hoá có thể trao đổi được với nhau. Vỡ vậy, khi người ta trao đổi hàng hoá cho nhau về thực chất là trao đổi lao động của mỡnh ẩn dấu trong những hàng hoỏ ấy. Do vậy có thể nói, lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá là cơ sở chung cho việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hoá.
Như vậy, giá trị của hàng hoá là lao động xó hội của người sản xuất ra hàng hoỏ kết tinh trong hàng hoỏ. Cũn giỏ trị trao đổi mà chúng ta để cập ở trên, chẳng qua chỉ là hỡnh thức biểu hiện ra bờn ngoài của giỏ trị, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Cũng chính vỡ vậy, giỏ trị là phạm trự chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hoá.
3) Ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta hiện nay
a) Đẩy mạnh phan công lao động để phát triển kinh tế hàng hoá, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của xó hội.
b) Phải coi trọng cả hai thuộc tính của hàng hoá để không ngừng cải tiến mẫu mó, nõng cao chất lượng, hạ giá thành.