Biện pháp rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh lớp 2

[toc]

A – ĐẶT VẪN ĐỀ

I./Lời mở đầu.

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước đòi hỏi phải đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Nhân tố quyết định thắng lợi là nguồn lực con người Việt Nam trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao, cho nên trước hết phải chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp người lao động có những phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Điều này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông.

Năm 2003 – 2004 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thay sách giáo khoa lớp 2 trên toàn quốc. Ở chương trình tiểu học cùng với các phân môn như Tập đọc, Tập làm văn phân môn kể chuyện có mối quan hệ gắn bó, quan hệ chặt chẽ với nhau. Nó có sự gắn bó không chỉ ở sự phân bố giờ học mà còn ở nội dung dạy, thể hiện rõ quan điểm tích hợp, tạo ra một phong cách mới trong dạy học phân môn kể chuyện. Việc lấy văn bản ở bài Tập đọc làm ngữ liệu cho giờ kể chuyện, giúp giáo viên tiết kiệm được khá nhiều thời gian, giúp học sinh tìm hiểu truyện; ghi nhớ cốt truyện. Do đó, chương trình đã dành được nhiều thời gian cho việc rèn kỹ năng nói cho học sinh.

Phân môn kể chuyện ở tiểu học có một vị trí quan trọng. Nó góp phần bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển tư duy và ngôn ngữ cho học sinh. Ngoài ra nó còn nhằm nâng cao năng lực trí tuệ, đồng thời rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Chính vì vậy tiết kể chuyện đòi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn, vừa biết dạy cho học sinh tập nói – tập kể chuyện và phát triển ngôn ngữ, bước đầu tập dùng ngôn ngữ của bản thân để diễn tả (tập kể chuyện). Qua mỗi tiết kể chuyện, học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lý thú, cảm nhận được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích… nhưng điều quan trọng hơn là các em học được cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn, một bài. Đây chính là yêu cầu rèn kỹ năng nói cho học sinh.

Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã chọn nội dung: “Một số biện pháp rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh lớp 2”.

II./Thực trạng việc rèn kỹ năng trong giờ kể chuyện ở lớp 2.

Năm học 2010 – 2011 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2A. Tổng số học sinh là 29 trong đó 17 HS nam, 12 HS nữ.

1. Thuận lợi:

Tất cả học sinh được sự quan tâm chăm sóc chu đáo của gia đình; học sinh có đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập. Các em đều được kế thừa truyền thống hiếu học của gia đình, được sự quan tâm của các lực lượng gáio dục ở địa phương.

Học sinh được học tập 2 buổi/ngày có nhiều điều kiện để giáo viên quan tâm nhiều hơn đến từng đối tượng học sinh.

Điều kiện cơ sở vật chất nhà trường đàm bảo được yêu cầu Dạy – Học của giáo viên và học tập của học sinh.

Giáo viên có lòng nhiệt tình, luôn tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu đáp ứng kịp thời nhiệm vụ dạy học; quan tâm đến mọi đối tượng học sinh.

2. Khó khăn.

Trong những năm vừa qua hầu hết giáo viên vẫn còn bị ảnh hưởng theo lối dạy kể chuyện theo chương trình cũ, giờ kể chuyện giáo viên kể mẫu xong chỉ đặt các câu hỏi như: Câu chuyện này có mấy nhân vật? là những nhân vật nào? để cho các em nhớ lại cốt truyện, sau đó là để các em kể lại theo đoạn và cả câu chuyện. Với hình thức dạy kể chuyện như vậy nhiều khi học sinh không thể nắm bắt được cốt truyện ngay trên lớp, trừ một số em đã đọc truyện đó ở nhà một hai lần. Do đó hạn chế kỹ năng kể lại và nhận xét bạn kể của các em. Điều đó cũng ảnh hưởng đến việc rèn khả năng nghe, nói cho học sinh. Khi tổ chức các hoạt động dạy trong giờ kể chuyện chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo, năng động của học sinh. Chưa linh hoạt khi xử lí các tình huống có vấn đề khi dạy giờ kể chuyện

Ở phân môn kể chuyện trong bộ SGK không có quyển Truyện kể dùng riêng cho các giờ Kể chuyện. Trên lớp, học sinh chỉ kể lại hoặc dựng lại dưới hình thức hoạt cảnh những câu chuyện đã học trong tiết tập đọc đầu tiên trong tuần.

Trong quá trình dạy học giáo viên chưa động viên kịp thời học sinh, chưa giúp các em nhập hồn vào các nhân vật khi kể dẫn đến giờ học hiệu quả chưa cao. Việc chuẩn bị bài của học sinh chưa chu đáo, tình trạng học sinh không nắm được yêu cầu, nội dung câu chuỵên cần kể còn hạn chế.

Từ đó dẫn đến học sinh chưa phân biệt được các mức độ: kể được bằng lời trong văn bản, kể bằng lời của mình, kể bằng lời trong câu chuyện. Các em diễn đạt chưa lưu loát, chưa biết thay đổi giọng phù hợp với nội dung câu chuyện, chưa biết sử dụng điệu bộ, cử chỉ hỗ trợ cho lời kể. Vì vậy chưa phát huy được khả năng nói của học sinh trong giờ học kể chuỵên.

Do số học sinh phần lớn là con em gia đình nông nghiệp, đời sống kinh tế còn khó khăn nên vấn đề quan tâm của gia đình đến việc học tập của con em vẫn bị hạn chế. Phụ huynh học sinh chưa có điều kiện để giúp đỡ con em về phương pháp học tập.

Học sinh lớp 2 – các em còn nhỏ tuổi nên chưa thực sự tự tin khi diễn giải điều gì trước lớp

Cụ thể chất lượng khảo sát đầu năm học 2010- 2011 ở lớp 2A về khả năng nói của học sinh trong giờ kể chuyện như sau:

Tốt: 2 em = 6,8%
Khá: 8 em = 27,5%
TB: 10 em = 34,4%
Yếu: 9 em = 31%

Như chúng ta đã biết, việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục và giáo dưỡng, chương trình đề ra là một việc làm không dễ dàng, đòi hỏi phải có sự đầu tư về thời gian và phải có những biện pháp thích hợp nhằm giúp học sinh phát huy tốt khả năng tự tin, cách diễn đạt của mình trong giờ kể chuyện.

B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I./Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua phân môn kể chuyện lớp 2.

1. Rèn luyện kĩ năng nói qua phương pháp, hình thức tổ chức dạy học:

2. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện theo tranh:

3. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp.

4. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện phân vai:

II./Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua phân môn kể chuyện lớp 2.

Trong cấu trúc SGK Tiếng Việt lớp 2, các câu chuyện được phân bố như sau:

Thể loại truyện

Số lượng

Tên truyện

Thần thoại – Truyền thuyết

2

Sơn Tinh, Thuỷ Tinh

Chuyện quả bầu

Cổ tích và cổ tích mới

5

Sự tích cây vú sữa

Hai anh em

Bà cháu

Tìm ngọc

Ông Mạnh thắng Thần Gió

Ngụ ngôn

6

Có công mài sắt có ngày nên kim

Chuyện bốn mùa

Một trí khôn hơn trăm trí khôn

Kho báu

Câu chuyện bó đũa

Quả tim khỉ

Danh nhân lịch sử

3

Ai ngoan sẽ được thưởng

Chiếc rễ đa tròn

Bóp nát quả cam

Sinh hoạt

11

Đồng thoại

4

Bạn của Nai nhỏ

Chim Sơn ca và bông cúc trắng

Bác sĩ Sói.

Tôm càng và cá con

1. Rèn luyện kĩ năng nói qua phương pháp, hình thức tổ chức dạy học:

Theo luật giáo dục về yêu cầu nội dung, phương pháp giáo dục tiểu học thì: phương pháp giáo dục tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của từng học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh.

Đổi mới phương pháp dạy học là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện đậm nét trong chương trình mới ở chỗ:

Chương trình tiểu học mới tập trung vào cách dạy học, đặc biệt là giúp học sinh biết cách học và có nhu cầu tự học, khuyến khích dạy học cá nhân và dạy học hợp tác để phát triển năng lực theo tốc độ học, khả năng của từng học sinh.

Là một phân môn nằm trong chương trình tiểu học mới, phân môn kể chuyện lớp 2 cũng được dạy theo phương pháp mới. Trong giờ kể chuyện, giáo viên chỉ nêu đầu bài, yêu cầu và mục đích của tiết kể chuyện.

Học sinh tự kể (cá nhân) hoặc nhóm theo các yêu cầu đó. Giáo viên chỉ là người đạo diễn, hướng dẫn, chỉ đạo, còn học sinh là diễn viên, là người thực hiện, chủ đạo trong tiết kể chuyện đó. Giáo viên chỉ kể mẫu một lần, thậm chí giáo viên không cần kể mẫu, mà gọi một học sinh khá kể mẫu, cho học sinh xung phong kể mẫu. Còn lại các học sinh khác lần lượt kể theo đoạn và cả câu chuyện bằng nhiều hình thức khác nhau.

Trong khi học sinh kể, chỗ nào các em quên, lúng túng thì giáo viên nhắc một cách khéo léo, tế nhị hoặc mời một học sinh khác nhắc giúp bạn học. Như vậy, trong giờ dạy học kể chuyện, học sinh sẽ phát huy được khả năng nghe nói của mình một cách tối đa. Hơn nữa giáo viên lại sử dụng các phương tiện dạy học như tranh ảnh, một số dụng cụ thật với hình thức kể chuyện sắm vai, làm cho giờ học kể chuyện thực sự sôi nổi, hấp dẫn.

Hình thức dạy học cũng được đổi mới: giáo viên có thể tổ chức dạy học theo lớp, theo nhóm… Trước kia giáo viên chỉ dạy theo lớp là chủ yếu, học sinh ít được học theo nhóm. Học theo hình thức mới này sẽ giúp cho học sinh phát triển kĩ năng nói trước lớp, trước đám đông.

Ví dụ bài: Con chó nhà hàng xóm (Tiếng Việt 2 – tập 1 trang 128) yêu cầu dựa vào tranh kể lại từng đoạn câu chuyện đã học. Với tiết kể chuyện này, giáo viên cho học sinh làm việc theo nhóm. Giáo viên cho học sinh quan sát tranh 1, sau đó đặt câu hỏi gợi ý:

– Bạn của Bé ở nhà là ai?

– Bé và Cún Bông đang làm gì?

Sau khi quan sát tranh 1, nghe giáo viên đặt câu hỏi, học sinh phải huy động nhiều thao tác: nghe để nhớ câu hỏi, hiểu câu hỏi rồi các em vừa quan sát tranh vừa nhớ lại nội dung câu chuyện đã được học để xác định nội dung câu trả lời. Cuối cùng các em phải trình bày được câu trả lời của mình dưới hình thức nói. Như vậy, để trả lời được câu hỏi, học sinh phải sử dụng nhiều thao tác bộ phận của kĩ năng nói: nghe-nhớ, nghe-hiểu, xác định nội dung câu trả lời, nói. Đó là từng hoạt động của từng học sinh, mỗi học sinh trong nhóm thảo luận với nhau để tìm ra câu trả lời chính xác.

Sau khi học sinh đã nhớ lại được đoạn 1 của câu chuyện, giáo viên cho học sinh kể. Đây là lúc các em bước đầu rèn luyện kĩ năng nói nhưng mới chỉ ở dạng độc thoại. Lời kể của các em diễn ra liên tục, do đó các em ít có thời gian để ngừng nghỉ, chuẩn bị. Chính vì vậy đòi hỏi học sinh phải chuẩn bị kĩ càng nội dung kể, tâm thế kể chuyện (thậm chí cả ngôn từ và các yếu tố phụ trợ). Khi kể chuyện, ngoài việc tự nghe mình kể, các em còn phải lưu ý quan sát những phản ứng từ người nghe, để có sự điều chỉnh phù hợp về nội dung, giọng kể, điệu bộ…

Những học sinh khác, khi bạn kể chú ý nghe để nhận xét lời kể của bạn về nội dung, về cách diễn đạt, cách thể hiện để bạn rút được kinh nghiệm và chính bản thân các em cũng được bổ trợ những kinh nghiệm đó để điều chỉnh mình khi kể.

Qua đây, ta thấy: rõ ràng phương pháp kể chuyện mới này đã có những tiến bộ rõ rệt: trong tiết học, giáo viên chỉ là người hướng dẫn chỉ đạo còn học sinh mới thực sự là người làm cho tiết học sôi nổi, hấp dẫn hơn.

Bởi trong tiết kể chuyện, hoạt động của học sinh chiếm 2/3 tiết học. Như vậy có nghĩa là học sinh được chủ động trong việc nghe nói, đẩy ngôn ngữ nói của các em lên một mức cao hơn.

2. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện theo tranh:

Chúng ta cần phân biệt kể chuyện theo tranh và sử dụng tranh minh hoạ cho truyện. Tranh ảnh là đồ dùng trực quan có thể được sử dụng trong bất kì một môn học nào. Nhưng các môn học khác, sử dụng tranh khi giới thiệu khái niệm hoặc nhằm minh họa cho khái niệm, nhưng ở tiết dạy kể chuyện của chương trình cải cách giáo dục, giáo viên sử dụng tranh vẽ để minh hoạ cho nội dung truyện, làm cho lời kể mẫu của mình sinh động và hấp dẫn hơn. Còn hình thức kể chuyện theo tranh của chương trình mới thì hoàn toàn khác. Giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ tranh vẽ thể hiện nội dung, diễn biến của câu chuyện. Học sinh dựa vào tranh vừa là phương tiện trợ giúp trí nhớ một cách đắc lực, vừa là công cụ làm cho việc thể hiện lại câu chuyện một cách sinh động và hấp dẫn. Hình thức kể chuyện theo tranh là hình thức rất hay, phát huy được khả năng quan sát, óc tưởng tượng, đặc biệt là phát huy khả năng nói (ngôn ngữ) ở các em.

Hướng dẫn kể chuyện theo tranh.

* Trong sách giáo khoa:

Đa số các câu chuyện đều được kể theo tranh, mỗi bức tranh sẽ tương ứng với nội dung của một đoạn truyện, thường thì mỗi câu chuyện có từ 3 đến 4 đoạn nên có từ 3 đến 4 bức tranh minh hoạ. Nhưng cũng có những truyện có từ 5 đến 6 đoạn nên được minh hoạ bằng 5 đến 6 tranh, ví dụ như truyện “Tìm ngọc” (Tiếng việt 2-trang 140 tập 1).

Tranh sử dụng trong kể chuyện có hai loại: tranh kèm lời gợi ý (dùng trong những tuần đầu năm học) và tranh không kèm lời gợi ý (dùng trong những tuần sau).

Trong việc áp dụng biện pháp này, giáo viên có thể sử dụng tranh trong sách giáo khoa hoặc vẽ tranh lớn treo trên bảng.

+ Hướng dẫn đối với những truyện có tranh kèm theo lời gợi ý: Ví dụ truyện “Có công mài sắt có ngày nên kim” (lớp 2-tập 1), sách giáo viên hướng dẫn như sau:

* Quy trình hướng dẫn:

– Cho học sinh quan sát từng tranh.

– Giáo viên đặt câu hỏi gợi ý.

– Cho từng học sinh kể.

– Sau mỗi lần cho một học sinh kể, cho lớp nhận xét:

+ Về nội dung: Kể đã đủ ý chưa? Kể có đúng trình tự không?

+ Về cách diễn đạt: Nói đã thành câu chưa? Dùng từ có hợp không? Đã biết kể bằng lời của mình chưa(mức độ cao)?

+ Về cách thể hiện: Kể có tự nhiên không? Đã biết phối hợp lời kể với điệu bộ, nét mặt chưa? Giọng kể có thích hợp không?

* Kể theo tranh 1:

Câu hỏi gợi ý:

+ Cậu bé đang làm gì? Cậu đọc sách như thế nào?

+ Em hãy nhớ lại truyện đã đọc: Cậu bé tập viết như thế nào?

– Ví dụ về lời kể có sáng tạo: Ngày xưa có một cậu bé làm gì cũng chóng chán. Cứ cầm đến quyển sách, đọc được vài ba dòng là cậu đã ngáp ngắn ngáp dài, rồi gục đầu ngủ lúc nào không biết. Lúc tập viết, cậu cũng chỉ nắn nót được mấy chữ đầu, rồi viết nguệch, viết ngoạc cho xong chuyện.

* Kể theo tranh 2:

Câu hỏi gợi ý:

– Tranh vẽ bà cụ đang làm gì?

– Cậu bé hỏi bà cụ điều gì?

– Bà cụ trả lời thế nào?

-C ậu bé có tin lời bà cụ nói không?

* Kể theo tranh 3:

Câu hỏi gợi ý:

– Bà cụ trả lời thế nào?

– Sau khi nghe bà cụ giảng giải, cậu bé làm gì?

Học sinh có thể tách lời giảng giải của bà cụ thành nhiều câu ngắn:

Hôm nay bà mài. Ngày mai bà lại mài. Mỗi ngày thỏi sắt nhỏ lại một ít. Chắc chắn có ngày nó sẽ thành cái kim…

* Kể theo tranh 4:

Câu hỏi gợi ý:

– Em hãy nói lại câu tục ngữ.

– Câu tục ngữ khuyên em điều gì?

Như vậy, ta thấy: đối với những câu chuyện kèm theo lời gợi ý, sách giáo viên đã hướng dẫn khá kĩ. Vì vậy, giáo viên nhìn hệ thống câu hỏi gợi ý này có thể điều hành một tiết kể chuyện dễ dàng, còn học sinh thì dựa vào hệ thống câu hỏi đó có thể tự mình kể được câu chuyện.

Vậy là hình thức kể chuyện theo tranh đã phát huy được tác dụng của nó, đó là việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh.

Để dạy được hình thức bài tập này đạt hiệu quả cao thì giáo viên không nên trao đổi tất cả các tranh cùng một lúc. Kể đoạn nào giáo viên treo tranh đoạn đó để thu hút sự tập trung của các em. Nếu nhìn tranh kể lại toàn bộ câu chuyện thì mới treo tất cả tranh cùng một lúc.(Phần củng cố)

Hơn nữa, giáo viên nên cho học sinh quan sát dưới lớp trước, sau đó gọi các em lên bảng kể và khuyến khích các em khi kể không cần nhìn chăm chú vào tranh mà chỉ dùng tranh như một phương tiện làm cho lời kể hay hơn, hấp dẫn hơn. Nghĩa là học sinh quay xuống lớp kể chỗ nào cần đến tranh thì các em mới chỉ vào tranh.

3. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp.

Kể chuyện là khả năng sử dụng ngôn ngữ ở dạng nói có tính nghệ thuật. Đây là một dạng đặc biệt của đối thoại. Kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp là hình thức kể chuyện sử dụng dàn ý, câu hỏi gợi ý để hướng dẫn học sinh kể chuyện. Trong tất cả các hình thức kể chuyện thì đây là hình thức dễ nhất vì các tình tiết, diễn biến câu chuyện đã được ghi lại (trong dàn ý hoặc câu trả lời), học sinh dựa vào đó để kể lại truyện. Với các câu chuyện dài, nhiều tình tiết, giáo viên sử dụng hình thức kể chuyện này sẽ giúp học sinh dễ dàng kể lại câu chuyện.

Ví dụ như truyện “Kho báu” (lớp 2-tập 2). Nói chung đây cũng là một truyện khá dài, nhưng nếu giáo viên dùng hình thức hội thoại, giao tiếp trong tiết kể chuyện sẽ giúp học sinh kể được câu chuyện dễ dàng hơn, đồng thời giúp học sinh phát huy được khả năng nói của mình. Giáo viên có thể dùng dàn ý dưới đây để giúp học sinh kể lại câu chuyện:

– Đoạn 1: Hai vợ chồng chăm chỉ.

+ Thức khuya dậy sớm.

+ Không lúc nào ngơi tay.

+ Kết quả tốt đẹp.

– Đoạn 2: Dặn con.

+ Tuổi già.

+ Hai người con lười biếng.

+ Lời dặn của người cha.

– Đoạn 3: Tìm kho báu.

+ Đào ruộng tìm kho báu.

+ Không thấy kho báu.
+ Hiểu lời dặn của cha.

Hướng dẫn học sinh kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp.

* Trong sách giáo khoa:

Qua khảo sát sách giáo khoa lớp 2 chương trình mới ta thấy, đây cũng là một hình thức phổ biến của phân môn kể chuyện lớp 2 chương trình tiểu học mới. Hình thức này không có yếu tố tranh ảnh phụ trợ. Song mỗi đoạn truyện thường có 3-4 câu gợi ý ngắn, mỗi câu gợi ý chứa đựng nội dung tổng hợp của đoạn truyện. Những câu gợi ý đó lại gợi lại trí nhớ, trí tưởng tượng của học sinh một cách dễ dàng. Lệnh của hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp thường là: “Dựa vào các gợi ý sau kể lại từng đoạn của câu chuyện mới học”. Sau khi phát lệnh, giáo viên ghi gợi ý của từng đoạn lên bảng và cho học sinh nhìn vào gợi ý đó để các em có thể kể lại. Tuy nhiên, để cho hình thức này phát huy hiệu quả rèn kĩ năng nói cho học sinh thì giáo viên không nên ghi những gợi ý đó lên bảng ngay, mà cần đưa ra câu hỏi cho học sinh trả lời. Những câu hỏi này phải đảm bảo tính logic của truyện.

Như vậy, ở hình thức này, sách giáo khoa có những dạng bài tập cụ thể sau:

– Dạng 1: Sách giáo khoa đưa ra gợi ý hoặc dàn ý tương đối cụ thể để hướng dẫn học sinh kể lại câu chuyện. Ví dụ: bài Chim sơn ca và bông cúc trắng (Tiếng Việt2-tuần 21). Có một số bài thay dạng bài tập này bằng dạng bài tập “Dựa vào tóm tắt sau kể lại câu chuyện”. Ví dụ: Người làm đồ chơi (Tiếng Việt 2-tuần 34).

– Dạng 2: Nêu những nhân vật trong câu chuyện, kể lại sự xuất hiện của nhân vật, nhắc lại lời nhân vật. Ví dụ truyện Người thầy cũ (Tiếng Việt 2 – tập 1), Bạn của Nai nhỏ(Tiếng Việt 2-tập 1),….

– Dạng 3: Tóm tắt nội dung của từng đoạn bằng một câu và đặt tên cho từng đoạn truyện. Ví dụ truyện Một trí khôn hơn trăm trí khôn (Tiếng Việt 2 –tuần 22).

* Trong sách giáo viên:

Thứ nhất: Dạng bài tập nhắc lại lời nhân vật trong truyện.

Ví dụ truyện “Bạn của Nai nhỏ” (Tiếng Việt 2-tập 1), yêu cầu: nhắc lại lời của Nai bố khi Nai nhỏ kể về bạn, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:

– Giáo viên cho học sinh nhìn lại tranh, nhớ và nhắc lại lời của Nai cha với Nai nhỏ. (Có thể gợi ý: nghe Nai nhỏ kể lại hành động hích đổ hòn đá to của bạn, cha Nai nói thế nào? Nghe Nai nhỏ kể chuyện người bạn đã nhanh trí kéo mình chạy trốn khỏi con thú dữ, cha Nai đã nói gì? Nghe xong chuyện bạn mình húc ngã lão Sói để cứu Dê non, cha Nai đã mừng rỡ nói với con như thế nào?…)

– Vài học sinh nhắc lại những lời của Nai bố nói với con theo yêu cầu nói trên; giáo viên nhận xét, uốn nắn(nếu cần).

Chú ý: Học sinh chỉ cần nhắc lại đúng ý cơ bản của lời nhân vật (Nai nhỏ, Nai bố), không nhất thiết phải nêu nguyên các câu văn trong sách giáo khoa.

Như vậy, ở dạng bài tập này, sách giáo viên đã hướng dẫn khá cụ thể, chi tiết tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên khi tiến hành tiết dạy kể chuyện. Giáo viên không mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị giáo án.

Cũng chính vì vậy mà học sinh được rèn kĩ năng nói tốt hơn.

Thứ hai: Dạng bài kể lại sự xuất hiện của nhân vật.

Ví dụ truyện Người thầy cũ(Tiếng Việt 2-tập 1), yêu cầu: Câu chuyện gồm có mấy nhân vật? Kể lại sự xuất hiện của nhân vật chính(chú bộ đội) ở đoạn 1, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:

Dạy theo quy trình đã hướng dẫn. Chú ý:

+ Ý nghĩ của Dũng.
– Các nhân vật trong câu chuyện: Dũng, chú bộ đội tên là Khánh (bố của Dũng) và là thầy giáo.

– Mở đầu câu chuyện: sự xuất hiện của nhân vật chính-chú bộ đội. Những chi tiết chính cần kể:

+ Địa điểm diễn ra câu chuyện: trường của Dũng.

+ Thời gian diễn ra câu chuyện: giờ ra chơi.

+ Nhân vật: chú bộ đội.

+ Lí do xuất hiện của nhân vật: đến thăm thầy giáo cũ, cũng chính là thầy giáo của con mình (Dũng).

– Kết thúc câu chuyện:

+ Bố của Dũng chào thầy giáo, ra rể.

Như vậy, cũng giống như dạng bài tập trên, ở dạng bài tập này, sách giáo viên cũng hướng dẫn khá kĩ. Chắc chắn khi nhìn vào những gợi ý này học sinh sẽ kể được truyện.

Thứ ba: Dạng bài tập dựa vào gợi ý, kể laị từng đoạn câu chuyện.

Ví dụ truyện “Chim sơn ca và bông cúc trắng” (lớp 2 –tập 2), yêu cầu: Dựa vào các gợi ý dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện trên bằng lời của em; sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:

Trước khi kể từng đoạn, giáo viên cho học sinh đọc thầm toàn bộ dàn ý câu chuyện trong sách giáo khoa, trả lời:

– Truyện có mấy đoạn? Nôị dung chính của từng đoạn?

Truyện có 4 đoạn:

+ Đoạn 1: Cuộc sống tự do, sung sướng của Sơn Ca và Cúc.

+ Đoạn 2: Sơn Ca bị cầm tù.

+ Đoạn 3: Trong tù.

+ Đoạn 4: Sự hối hận muộn màng.

– Giáo viên viết nội dung từng đoạn lên bảng.

Qua đây ta thấy: ở dạng bài tập này, sách giáo viên cũng đã hướng dẫn khá kĩ. Điều đó giúp giáo viên rất nhiều trong giờ lên lớp tiết kể chuyện. Bởi giáo viên không mất nhiều thời gian trong việc chuẩn bị giáo án, hơn nữa lại giúp học sinh rèn kĩ năng nói tốt.

4. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện phân vai:

Đây là hình thức thu hút được đông đảo học sinh tham gia. Không chỉ các em tham gia đóng vai có thể hiện tính cách của nhân vật mà các em ngồi dưới theo dõi, cổ vũ hết sức nhiệt tình. Chính sự hứng thú của học sinh là điều kiện tốt để giáo viên rèn luyện kĩ năng nói, giao tiếp cho các em trong giờ kể chuyện.

Ví dụ khi phân vai dựng lại câu chuyện Quả tim khỉ (Lớp 2-tập 2) gọi 3 em: một em đóng vai người dẫn chuyện, một em đóng vai Khỉ, và một em đóng vai Cá sấu. Giọng người dẫn chuyện chậm rãi, nhẹ nhàng; giọng Khỉ ân cần lúc hỏi han Cá Sấu và bình thản khi biết âm mưu của Cá Sấu; giọng Cá Sấu buồn một cách giả dối, đặc biệt là con mắt của Cá Sấu thỉnh thoảng lại liếc sang Khỉ để dò thái độ. Sau khi hướng dẫn xong, có thể giáo viên làm mẫu cho học sinh xem.

Như vậy, những dạng bài tập hình thức kể chuyện phong phú đã thu hút, lôi cuốn các em trong giờ kể chuyện, làm cho các em như sống lại với những nhân vật trong truyện. Với niềm say mê của học sinh cũng như sự dạy dỗ tận tình của giáo viên và phương pháp dạy học phù hợp thì giờ kể chuyện sẽ là một môi trường tốt để rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói cho học sinh.

C – KẾT LUẬN

1. Kết quả nghiên cứu.

Việc áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh ở lớp 2 do tôi chủ nhiệm đã có rất nhiều tiến bộ. Ở mỗi tiết kể chuyện, các em đã biết kể lại câu chuyện ở các mức độ: kể bằng lời trong văn bản, kể bằng lời của mình, kể bằng lời của nhân vật trong câu chuyện. Hầu hết các em đều kể rất tốt, lưu loát, biết thay đổi giọng kể phù hợp với nội dung câu chuyện, bước đầu biết sử dụng điệu bộ, cử chỉ để hỗ trợ cho lời kể. Khi kể, các em biết thay thế, thêm bớt các từ ngữ làm cho câu chuyện sinh động hơn. Hầu hết học sinh đã biết trước được nội dung của câu chuyện nên có rất nhiều thời gian để rèn kĩ năng nói cho học sinh. Đặc biệt khi dùng dàn ý hoặc câu hỏi, rất ít em phải nhìn vào dàn ý đó để kể lại.

Chất lượng khảo sát tháng 3/2009 về khả năng nói của học sinh trong giờ kể chuyện như sau:

Tốt: 5 em = 17,2%

Khá: 12 em = 41,3%
TB: 10 em = 34,4%

Yếu: 2 em = 6,8%

2. Bài học kinh nghiệm

Với phương châm lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người chỉ đạo, hướng dẫn, còn học sinh là người thực hiện triển khai công việc, tôi nghĩ trong giờ dạy, giáo viên nên tạo ra trong lớp học một không khí sôi nổi thoải mái.

Trong giờ kể chuyện học sinh phải được phát huy tối đa khả năng nói của mình. Giáo viên nên dùng các hình thức động viên, khuyến khích các em, đặc biệt là đối với những em rụt rè, chưa tự tin. Ngoài ra, để hình thành kỹ năng kể chuyện cho học sinh còn phụ thuộc vào phương pháp, hình thức tổ chức của giáo viên. Dạy phân môn kể chuyện giáo viên phải đưa ra và lựa chọn những phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp cho việc rèn luyện kĩ năng nói của học sinh. Chẳng hạn về phương pháp: có phương pháp kể chuyện bằng tranh, phương pháp đàm thoại, phương pháp nhập vai, phân vai. Về hình thức tổ chức: hình thức lớp – bài, hình thức học theo nhóm… trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Hình thức học này giúp học sinh bình tĩnh, tự tin hơn và mạnh dạn nói ra ý kiến của mình. ở đây, học sinh được tham gia nói nhiều hơn, được phát huy khả năng nói của mình. Bởi lẽ ai cũng biết, hoạt động giao tiếp là hoạt động có ý nghĩa sống còn đối với xã hội. Giao tiếp đối với học sinh tiểu học là vô cùng cần thiết. Việc rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cũng vậy, nó giúp các em khi tiếp xúc với bạn bè, với thầy cô, với người thân một cách tự nhiên hơn, thân mật hơn và tự tin hơn rất nhiều.

Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân được rút ra trong quá trình dạy phân môn kể chuyện ở lớp 2. Tôi đã áp dụng những kinh nghiệm trên và đã có hiệu quả nhất định và đây là kinh nghiệm của cá nhân.

Trong quá trình viết sáng kiến chắc chắn còn những khiếm khuyết, tôi rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học nhà trường và đồng nghiệp để sáng kiến của tôi sát thực tế hơn và có giá trị trong dạy học kể chuyện lớp 2.

READ:  [TẢ CÂY PHƯỢNG] TẢ VỀ CÂY MÀ EM THÍCH