Theo chiều dài bốn ngàn năm của lịch sử dân tộc có nhiều dấu mốc đáng ghi nhớ gắn với sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm. Một trong những mốc lơn ấy là sự kiện Cách mạng tháng 8.1945 thành công, nước Việt Nam được khai sinh. Để tuyên bố với nhân dân cả nước và thế giới biết nước Việt Nam từ nay độc lập, Hồ Chí Minh đã viết tuyên ngôn độc lập. Một văn kiện đặc biệt vừa tính văn học, vừa mang tính lịch sử.
Xem thêm:
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình – Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mở ra một kỉ nguyên mới Độc lập, Tư do Hà Nội tưng bừng màu đỏ, cả một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa.
“Việt Nam độc lập muôn năm!” – Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hoà làm một, vang dội núi sông, khi Hồ Chủ tịch vừa kết thúc bản tuyên ngôn
Đọc bản Tuyên ngôn độc lập đến nửa chừng Hồ Chủ tịch dừng lại và bỗng dưng hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?”. Tức thì một tiếng “có” của triệu con người cùng đáp, vang dậy như sấm.
“Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”
Có thể nói: Bản Tuyền ngôn độc lập thể hiện một cách hùng hồn. khát vọng ý chí và sức mạnh Việt Nam… Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh.
Nếu như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: Nam quốc sơn hà Nam đế cư. Bình Ngô đại cáo khẳng định một chân lí lịch sử: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” thì Tuyên ngôn độc lập lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trên thế giới.
Câu thứ nhất trích từ bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776:
Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Câu thứ hai rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791:
Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra: “Tất cả các tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, Quyền sung sướng và quyền tự do”, và đi tới khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Qua đó, ta thấy ý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lý tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, về nhân quyền đi đến một yêu cầu, mội khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là độc lập dân tộc. Và Độc lập – Tự do – hạnh phúc là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta, của Cách mạng Việt Nam sự lãnh đạo của Đảng và Chủ lịch Hồ Chí Minh.
Giọng văn từ trang nghiêm, trang trọng chuyển thành hùng hồn, căm giận khi Hồ Chủ tịch vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong gần một thế kỉ qua. Bộ mặt của chúng vô cùng xảo quyệt và dã man “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. Tác giả đã điểm qua một cách khái quát và điển hình tội ác của thực dân Pháp trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế và những tội ác chống chất như núi. Đó là năm tội ác ghê tởm về chính trị và bốn tội ác cực kì dã man về kinh tế của chúng.
Năm tội ác lớn về chính trị là tước đoạt quyền tự do dân chủ; luật pháp dã man chia để trị; đàn áp và khủng bố; thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng rượu cồn và thuốc phiện “để làm cho nòi giống ta suy nhược”. Trong Bình Ngô đại cáoNguyễn Trãi đã nói về tội ác của quân cuồng Minh: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn – Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Hớn 500 năm sau, trong Tuyên ngôn Độc lập, người anh hùng giải phóng dân lộc Hồ Chí Minh viết:
“Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”.
Đó là những bằng chứng không ai chối cãi đươc. Câu văn ngắn, đanh hùng hồn. Chữ chúng được nhắc lại nhiều lần đầy ám ảnh. Cách so sánh cụ thể mỉa mai (lập ra nhà tù nhiều hơn trường học). Cách dùng vị ngữ, trạng ngữ xác đáng (thẳng tay chém giết), cách dùng hình ảnh (bể máu) – tất cả tạo nên phong cách chính luận Hồ Chí Minh: súc tích, lập luận chật chẽ, đanh thép, lời lẽ hồn đầy sức thuyết phục.
Bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp là bóc lột dân ta đến tận xương tủy khiến cho “dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”; cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu; độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. v.v… Lên án chính sách sưu thuế vô nhân đạo của chúng, tác giả giận viết: “Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng”. Hàng trăm thứ thuế vô lý ấy của thực dân Pháp đặt ra, nhân dân ta đã từng chịu đựng và ghê tởm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực Pháp. Mùa thu năm 1940, thực dân Pháp “quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta, rước Nhật”. Pháp và Nhật đã cấu kết với nhau, bóc lột dân ta thậm tệ, gây ra thảm họa năm ất Dậu, 1945: “Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ dân ta sống cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị, đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta đã bị chết đói!”
Sự hèn hạ, tàn ác của thực dân Pháp không thể nào kể xiết! Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng. Tác giả châm biếm lên án: “Chúng chẳng nhữne không “bảo hộ” được ta, trái lại trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật!”. Thậm lệ và tàn nhẫn hơn nữa là trước khi rút chạy “chúng còn nhẫn lâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
Bằng cách lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định một sự thật lịch sử. Từ năm 1940 trở đi, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Để đạp tan luận điệu của Đờ Gôn và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu tái chiếm Đông Dương, Hồ Chí Minh hùng hồn tuyên bố: “Sự thật nhân dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.
Tuyên ngôn độc lập có giá trị lịch sử to lớn. Tác giả chỉ rõ một cụcd diện chính trị mới: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Từ nô lệ, nhân dân ta đã giành được độc lập: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Một chế độ mới, một nhà nước mới ra đời: “Dân ta đã đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập chế độ Dân chủ Cộng hoà”.
Phần tiếp theo là lời tuyên bố sáng ngời chính nghĩa, thể hiện một quyết tâm Sắt thép, không một thế lực thù địch nào có thể lay chuyển nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên lập trường dân tộc kêu gọi các nước Đồng minh công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam. Đồng thời mạnh mẽ tuyên bố: Thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Tác giả tự hào nêu cao truyền thống anh hùng bất khuất chống thực dân, chống phát xít dân tộc ta và khẳng định: “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”.
Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập là một lời tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử như một lời thề thiêng liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta, biểu thị quyết tâm và sức mạnh Việt Nam:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Tuyên ngôn độc lập đã thể hiện một cách cao đẹp và sáng tỏ phong cách chính luận của Hồ Chí Minh. Bác viết văn làm thơ là để phục vụ cách mạng. Trước lúc cầm bút, Người tự hỏi: Viết nhằm mục đích gì? Viết cho ai? Viết về vấn đề gì? Viết như thế nào? Đối tượng của Tuyên ngôn độc lập không chỉ nói với nhân dân Việt Nam mà còn để nói với thế giới, đặc biệt là nói với bọn đế quốc, thực dân đang âm mưu tái chiếm Việt Nam. Mọi lý lẽ, luận cứ đều tập trung hướng về những đối tượng ấy và khẳng định quyền độc lập, tự do của nhân dân la.
Những luận cứ được Hồ Chủ tịch nêu lên trong bản Tuyên ngân Độc lập là những bằng chứng không thể chối cãi được. Chỉ một lời vạch tội, một mũi tên mà hắn trúng hai đích: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”. Đó là chính sách đàn áp khủng bố và ngu dân cùa thực dân Pháp.
Lời viết ngắn gọn, hàm súc, đầy thuyết phục. Chỉ một câu 9 từ mà nêu bật một cục diện chính trị: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Cách dùng từ ngữ của Bác rất chính xác và gợi cảm. Văn chính luận, bản chất của nó là lý lẽ và cách lập luận. Thế nhưng có lúc xuất hiện những hình ảnh cực kỳ xúc động: “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong những bể máu”. Cách dùng từ ngữ nhất là động từ, trạng ngữ vừa chính xác, vừa đanh thép: “thẳng tay chém giết…”, “thoát ly hẳn…”, “xoá bỏ hết…”, “xoá bỏ tất cả…”. Văn phong của Bác rất nhuần nhị, uyển chuyển trong cách sử dụng điệp từ, điệp ngữ, cấu trúc cân xứng, trùng điệp, tăng cấp… tạo nên những câu văn đẹp, ý tưởng sâu sắc, đầy ấn tượng:
“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc, đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập!”.
Hồ Chí Minh đã viết Tuyên ngôn độc lập vào hạ tuần tháng Tám năm 1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang – Hà Nội, ngay sau ngày Người từ chiến khu Việt Bắc về tới thủ đô (26/8/1945). Hồ Chí Minh đã có lần nói, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, chỉ có lúc soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập là những giờ phút sảng khoái nhất của Người.
Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn độc lập vừa có giá trị lịch sử to lớn, vừa mang những nét tiêu biểu cho văn chương chính luận của Hồ Chí Minh. Nó vừa kế thừa, phát huy được giá trị của lịch sử vừa mang tính thời đại sâu sắc. Tuyên ngôn độc lập sẽ còn mãi trong lịch sử dân tộc như một tờ khai sinh cho dân tộc Việt Nam, và cũng làm phong phú thêm kho làng văn học Việt Nam.