Cũng như bạn đang thắc mắc Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản là gì? thì dưới đây mình đã tìm được câu trả lời rất hay, giải đáp đúng được thắc mắc của mình:
Thứ nhất: Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, bởi sự vận động của mâu thuẫn này tác động tới những mâu thuẫn còn lại.
Thứ hai: Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân; giữa tư bản và lao động.
Thứ ba: Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và kém phát triển với chủ nghĩa đế quốc.
Thứ tư: Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa.
Mâu thuẫn là một chỉnh thể được tạo bởi hai mặt đối lập, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất, nương tựa với nhau, vừa đấu tranh, chuyển hóa cho nhau.
Tất cả các sự vật, hiện tượng trân thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Những mặt trái ngược nhau đó phép BCDV gọi là mặt đối lập. Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng vận động biến đổi trái ngược nhau. Sự tồn tại các mặ t đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả cá sự vật. Mặt đối lập đương nhiên bao hàm trong đó sự khác nhau song không phải mọi sự khác nhau đều có thể trở thành mặt đối lập mà chỉ có sự khác nhau nào có khuynh hướng vận động, phát triển trái chiều nhau thì mới trở thành những mặt đối lập.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ tác động qua lại với nhau, tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn là một phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự thống nhất và đấu tranh của hai mặt đối lập trong một chỉnh thể tạo thành sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả các giai đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú, đa dạng đó được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Các loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài (căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét)
Khái niệm:
+ Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật.
+ Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Phân tích:
+ Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là tương đối, tùy theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài, nhưng xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong.
Ví dụ: Trong phạm vi nước ta, mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh tế quốc dân là mâu thuẫn bên trong; còn mâu thuẫn về kinh tế giữa nước ta với các nước khác trong ASEAN là mâu thuẫn bên ngoài. Nếu trong phạm vi ASEAN thì mâu thuẫn giữa các nước trong khối lại là mâu thuẫn bên trong. Vì vậy, để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định phạm vi sự vật được xem xét.
+ Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong. Thực tiễn cách mạng nước ta cũng cho thấy: việc giải quyết những mâu thuẫn trong nước ta không tách rời việc giải quyết những mâu thuẫn giữa nước ta với các nước khác.
Mâu thuẫn cơ bản mâu thuẫn không cơ bản (căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật)
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suất quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu (căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định)
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biểu hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản hay là kết quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật, nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
Ví dụ: ở nước ta 1940-1943 mâu thuẫn chủ yếu: Nhật, Pháp và nhân dân ta; mâu thuẫn thứ yếu: địa chỉ và nông dân.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng (căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích trong xã hội)
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Ví dụ: mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, giữa vô sản với tư sản, giữa dân tộc bị xâm lược với bọn đi xâm lược.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Chẳng hạn mâu thuẫn giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn….
Ý nghĩa phương pháp luận
Mâu thuẫn là khách quan và phổ biến do vậy phải căn cứ vào chính bản thân sự vật để phân tích các mặt đối lập, tìm ra mâu thuẫn của nó, chỉ như vậy mới nhận thức được bản chất của sự vật.
Mâu thuẫn có nhiều loại, mỗi loại có vai trò khác nhau đối với sự phát triển của sự vật, hiện tượng, do đó phân biệt mâu thuẫn có ý nghĩa trong việc xác định đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp đối kháng; giải quyết mâu thuẫn không đối kháng thì phải bằng phương pháp trong nội bộ nhân dân.
Mâu thuẫn chỉ có thể giải quyết bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập, do đó không thể giải quyết bằng con đường điều hòa các mặt đối lập.
Mâu thuẫn cơ bản trên thế giới và ở nước ta hiện nay và phương thức giải quyết mâu thuẫn
-Mâu thuẫn trên thế giới
Trên thế giới hiện có 4 mâu thuẫn sau:
Mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB: đây là mâu thuẫn cơ bản bao trùm và xuyên suốt thời đại quá độ lên CNXH trên phạm vi TG, được mở đầu bằng thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga.
Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác. Mâu thuẫn này tồn tại ở trong lòng tất cả các nước tư bản (mâu thuẫn bên trong).
Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc. Hiện nay, mâu thuẫn này đang dần chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước chậm phát triển với các nước đế quốc phát triển.
Mâu thuẫn giữa các nước TBCN, các nước Đế quốc với nhau. Đây là mâu thuẫn bên trong của CNTB trong việc giành giật thị trường.
Tại Đại hội Đảng IX đã xác định: “Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có. Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của mình. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
– Mâu thuẫn ở Việt Nam:
Hiện nay con đường đi lên của nước ta sự quá độ lên chủ nghĩa XH bỏ qua chế độ TBCN. Vì vậy mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và CNXH trên thế giới được biểu hiện ở Việt Nam là mâu thuẫn giữa hai khả năng phát triển: hoặc là đi lên CNTB hoặc là đi lên CNXH. Suy ra cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay là cuộc đấu tranh giữa hai con đường nhằm giải quyết triệt để vấn đề làm thế nào đem lại thắng lợi cho con đường đi lên CNXH.
Tại đại hội IX của Đảng, vấn đề đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn tạo động lực cho sự phát triển tiếp tục thể hiện quy định về mâu thuẫn đồng thời cụ thể hoá thành những mâu thuẫn sau đây:
Loại mâu thuẫn giữa trạng thái KT kém phát triển với yêu cầu xây dựng một XH dân giàu nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
Mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng, hai con đường XHCN và TBCN. Mâu thuẫn này phát sinh từ hai mặt, hai khuynh hướng đối lập: Một mặt từ quá trình cải tạo xây dựng CNXH trên các mặt KT, chính trị, văn hoá tạo thành khuynh hướng XHCN. Mặt khác bắt nguồn từ nền sản xuất nhỏ, từ nền KT hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường làm nảy sinh những nhân tố đôí lập, khuynh hướng tự phát đi lên tư bản.
Loại mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH với các thế lực cản trở con đường phát triển của nước ta theo mục tiêu đó (thế lực thù địch trong và ngoài nước, vấn đề tội phạm, tệ nạn tham nhũng-thế giới xét Việt Nam là một trong số các nước có nạn tham nhũng nặng nhất).
Loại mâu thuẫn giữa mặt nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình đi lên CNXH. Loại mâu thuẫn này xuất từ yêu cầu nhận thức những quy luật những điều kiện khả năng khách quan với một bên là trình độ năng lực, nhận thức và hoạt động thực tiễn của đảng, của nhà nước trong quá trình lãnh đạo… Loại mâu thuẫn này thể hiện trong tư tưởng, lí luận, tổ chức, lãnh đạo chỉ đạo của nhà nước.
Phương thức giải quyết mâu thuẫn theo Đại hội XI
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất – kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đi lên CNXH (bổ sung năm 2011 tại Đại hội XI) xác định:
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là “Xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;… Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí