NGƯỜI CẦM QUYỀN KHÔI PHỤC UY QUYỀN
(Trích Những người khốn khổ – V. HUY-GÔ)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Tác giả
Vích-to Huy-gô (1802 – 1885) là một thiên tài nở sớm và rọi sáng từ đầu thế kỉ XIX cho tới nay. Thời thơ ấu của ông trôi qua không được bình thường như những đứa trẻ khác, song những trang sách đời khắc nghiệt ấy, với Huy-gô lại là những trải nghiệm vô cùng hấp dẫn, để lại những dấu ấn không bao giờ phai trong sáng tạo của thiên tài. Từ thời thanh xuân cho tới khi mất, sự nghiệp sáng tác của Huy-gô đều gắn với thế kỉ XIX, một thế kỉ đầy bão tố cách mạng như “Một tiếng vọng âm vang của thời đại” vừa bao la, vừa sâu thẳm, về tiểu thuyết có Nhà thờ Đức Bà Pa-ri (1831), Những người khốn khổ (1862), Chín mươi ba (1874),… Về thơ: về phương Đông (1829), Lá thu (1831) Tia sáng và bóng tối (1840), Trừng phạt (1853), Truyền kì các thời đại (1859). Về kịch: Vở kịch Éc-na-ni (1830) đã gây sóng gió trên sân khấu thời bấy giờ.
Là nhà văn lớn được thế giới ngưỡng mộ, Huy-gô còn là nhà hoạt động xã hội và chính trị không ngừng nghỉ vì sự tiến bộ của con người. Năm 1985, vào dịp một trăm năm ngày mất của ông, thế giới đã làm lễ kỉ niệm Huy-gô – Danh nhân văn hóa của nhân loại.
B. Tác phẩm: Người cầm quyền khôi phục uy quyền (trích)
• Tóm tắt tác phẩm
Những người khốn khổ là bộ tiểu thuyết đồ sộ của Vích-to Huy- gô gồm năm phần: Phần thứ nhất: Phăng-tin; phần thứ hai: Cô-dét; phần thứ ba: Ma-ri-uý; phần thứ tư: Tình ca phố Pơ-luy-mè và anh hùng ca phố XanIì Đơ-ni; phần thứ năm: Giăng Vangiăng.
Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Giăng Van-giăng, một người thợ xén cây đã bị tù khổ sai vì ăn cắp một mẩu bánh mì cho bảy đứa cháu nhỏ. Ra tù, anh bị mọi người xua đuổi, trừ đức giám mực Mi-ri-en. Được cảm hóa bằng tình thương, Van-giăng coi đó là lẽ sống của mình. Sau đó, ông đổi tên thành Ma-đơ-len, trở thành một thị trướng và chu nhà máy giàu có, ông làm việc thiện và tưởng đã cứu vớt được Phăng-tin, cô thợ nghèo phải bán thân, bán răng, bán tóc để nuôi con. Song gã thanh tra cảnh sát Gia-ve truy ra gốc tích của ông, ông lại rơi vào cảnh tù tội và Phăng-tin chết mà không được gặp lại đứa con gái Cô-dét. Sau đó, ông vượt ngục và nhiều lần thay đổi họ tên, chỉ có lẽ sống và tình thương là không bao giờ thay đổi cho tới khi nằm dưới nấm mồ, “cỏ che, mưa xóa”. Thời gian sau này của Van-giăng, có mấy sự việc cần chú ý: ông tìm đến chuộc bé Cô-dét đang sống khổ sở tại nhà Tê-nác-đi-ê đưa lên Pari nuôi giấu; có mặt trên chiến lũy trong cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống lại chính quyền của giai cấp đại tư sản nổ ra ở Pa-ri vào tháng Sáu năm 1832, cứu sống Ma-ri-uýt, người yêu của Cô-đét và lẳng lặng vun đắp cho hạnh phúc của họ. Sau khi lứa đôi đã sum họp, ông lánh mình, sống trong cô đơn. Đến lúc Giăng Van-giăng hấp hối, đôi trẻ mới biết ai là người đã cứu Ma-ri-uýt và chạy tới bên giường, nghe những lời cuối cùng của ông: “Trên đời, chỉ có một điều ấy thôi, đó là thương yêu nhau.”
* Đoạn trích
Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền nằm ở cuối phần thứ nhất: Phăngtin.
Phăng-tin bị Gia-ve bắt bỏ tù, may nhờ có Ma-đơ-len (tức Giăng Van-giăng) can thiệp mới được thoát nạn, rồi lại được Ma-đơ-len đưa vào năm ở bệnh xá. Đang lúc hết lòng cứu giúp Phăng-tin, Ma-đơ-len lại quyết định ra tòa tự thú để cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan và trở lại với tên thật của mình. Bởi vậy, ông phải đến từ giã Phăng-tin trong khi nàng chưa biết gì về sự thật tàn nhẫn đó. Và Gia-ve đã theo ông đến tận bệnh xá nơi Phăng-tin nằm đế canh chừng và bắt ông…
Đoạn trích này khắc họa rõ nét tính cách hai nhân vật Giăng Van-giăng và Gia-ve qua hành động, và nhất là đối thoại. Cần chú ý tập đọc diễn cảm các lời đối thoại của hai nhân vật đế bước đầu cảm nhận được nội dung ý nghĩa của đoạn trích.
1. Nghệ thuật đối lập hai nhân vật Giăng Van-giùng và Gia-ve qua đối thoại và hành động.
Cảnh trong đoạn trích có ba nhân vật: Giăng Van-giăng, Phăng-tin và Gia-ve (nhân vật bà xơ Xem-plích, người độc nhất chứng kiến cảnh ấy chỉ được tác giả nhắc đến). Ba nhân vật được phân thành hai tuyến khá rõ:
– Tuyến 1: “Những người khốn khổ”, ở tình huống này họ là những nạn nhân: một người đang bị bắt là Giăng Van-giăng; một người bị ốm, nằm bệnh xá, đang mong chờ gặp mặt đứa con gái, lại đang bị Gia-ve uy hiếp về mặt tinh thần là Phăng-tin. Hai con người này có quan hệ cưu mang giúp đỡ nhau trong tình yêu thương của đồng loại. Giăng Van-giãng đến đây để từ giã Phăng-tin trước khi ông bị Gia-ve bắt.
– Tuyến 2: Chỉ gồm một nhân vật là Gia-ve, thanh tra cảnh sát, đại diện cho chính quyền của giai cấp đại tư sản, hắn đến đây để canh chừng và để bắt Giăng Van-giăng.
Tuy có ba nhân vật, nhưng mâu thuẫn và xung đột chí diễn ra chủ yếu ở hai nhân vật đại diện cho hai phe: con người chân chính giàu tình thương là Giăng Van-giăng và kẻ đại diện cho cường quyền tàn bạo là Gia-ve. Nhà văn đã sử dụng triệt để nghệ thuật đối lập để khắc họa sâu sắc hai con người với hai chân dung, tính cách hoàn toàn đối lập nhau, từ đó mà bật nổi ý nghĩa tư tưởng của đoạn trích.
Nghệ thuật đối lập được sử dụng tinh tế và sắc sảo qua đối thoại và hành động của các nhân vật. Dưới đây là những gợi ý, các em căn cứ vào đó tìm những dẫn chứng trong đoạn trích, phân tích để làm sáng tỏ.
Giăng Van-giăng
– Điều quan tâm duy nhất của ông trong lúc này Là Phăng-tin (bệnh tình, tình cảm, đứa con gái,…) chứ không phải là việc ông bị bắt (chính ông đã tự thú để cứu môt nạn nhân).
– Mọi hành động, lời cầu xin của ông đối với Gia-ve đều vì Phăng-tin (phân tích lời cầu xin và hai hành động: rút thanh giường; các hành động đôi với Phăng-tin khi nàng đã chết…)
– Lời thoại điềm tĩnh, tự tin của người tự biết mình, và không hề có dấu hiệu gì tỏ ra sợ hãi Gia-ve. Chú ý ba lời thoại quan trọng:
+ Tôi biết là anh muốn gì rồi (đầu cảnh). + Tôi khuyên anh đừng quấy rầy tôi lúc này (khi Phăng-tin đã chết).
+ Giờ thì tôi thuộc về anh (cuối cảnh).
Gia-ve
– Điều quan tâm duy nhất của hắn trong lúc này là canh chừng để bắt Giăng Vangiăng. Và khi thấy Phăng-tin, dù nàng đang ốm và đau khổ vì chưa được gặp con, hắn vẫn không tiếc lời lăng nhục nàng.
– Nhà văn đã miêu tả hắn như một loài thú:
+ Tiếng nói man rợ và điên cuồng như tiếng thú gầm.
+ Cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng.
+ Giậm chân, phát khùng, hét lên,…
+ Ngôn ngữ tục tằn, thô lỗ, ra oai,… (mày, tao, con đĩ, đồ khỉ, chó đểu, câm họng, không thèm nghe,…)
– Nhưng trước thái độ tự tin đầy sức mạnh của Giăng Van-giăng, hắn lại run sợ, lùi ra phía cửa, mắt không rời Giăng Van-giăng.
2. Phân tích những hình ảnh so sánh và ẩn dụ đôi với hai nhân vật Gia-ve và Giăng Van-giăng
a) Ở Gia-ve, tác giả đã sử dụng một loạt chi tiết nhằm quy chiêu về một ẩn dụ (xem bảng so sánh trên đây ở cột Gia-ve). Ẩn dụ mà Huy-gô nhằm gợi lên từ hình ảnh Giave là một con thú chứ không phải là một con người, dù đó là một con người tàn bạo, độc ác. Ở đây, Gia-ve đã vượt qua ngưỡng một con người tàn bạo, độc ác để thành một con thú: có nghĩa là sự độc ác của hắn đã lên đến tột đỉnh khiến hắn không còn thuộc thế giới con người nữa mà đã chuyển sang một con thú, không còn một mảy may nào, dù là nhỏ nhất, của tính người. Đó là lí do khiến nhà văn đã có dụng ý nghệ thuật miêu tả Gia-ve như một loài thú như ta thấy trong đoạn trích này.
b) Ở Giăng Van-giăng, ta không tìm thấy một hệ thống hình ảnh so sánh quy về ẩn dụ như ở Gia-ve. Tuy nhiên, qua diễn biến tình tiết dẫn tới đoạn kết, những chi tiết về Giăng Van-giăng có thể quy chiếu về hình ảnh một người mẹ rất mực thương yêu đứa con không may đã qua đời trong một hoàn cảnh đầy thương tâm:
– Giăng Van-giăng ngồi ngắm Phăng-tin và cúi ghé lại gần thì thầm bên tai nàng.
– Đoạn văn gồm những câu hỏi dồn dập: “ông nói gì với chị?… có nghe thấy không?”
– Một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi Phăng-tin khi đi vào cõi chết.
– Hành động “người mẹ sửa sang cho con”, vuốt mắt cho con của Giăng Van-giăng.
– Gương mặt Phăng- tin như sáng rỡ lên một cách lạ thường.
– Lời bình luận của tác giả: “Chết tức là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại.”
Tất cả đã nói lên một cách rõ ràng và sâu sắc: Giăng Van-giăng là biểu tượng đẹp đẽ của tình thương yêu con người, và tình thương yêu ấy đã bộc lộ một cách chân thành, tha thiết ngay cả trong lúc sô phận của ông đang rơi vào hoàn cảnh bi dát.
3. Đoạn văn từ câu “Ông nói gì với chị?” đến câu “có thể là những sự thực cao cả” là phát ngôn của nhà văn. Đó là ngôn ngữ của tác giả. Ở đây, trong câu chuyện kể, nó có tác dụng nhấn mạnh và khắc sâu thêm hành động của Giăng Van-giăng khi ông cúi ghé lại gần và thì thầm bên tai Phăng-tin. Nó như một lời bình luận của tác giả để tôn cao thêm cái hành động nhân ái, đầy tình thương yêu con người của Giăng Vangiăng. Có điều, nhà văn không bình luận bằng những câu nói thông thường mà bằng những câu hỏi dồn dập, giàu sắc thái biểu cảm như xoáy vào lòng người đọc khiến họ phải chú ý vào chi tiết nghệ thuật đặc sắc đó, đồng thời cũng là cái cầu nối để mở ra “một nụ cười không sao tả được” của Phăng-tin khi đi vào cõi chết – nó là điều linh diệu có được từ hành động nhân ái nói trên. Rõ ràng, ngôn ngữ của tác giả đã góp phần quan trọng vào câu chuyện kể, làm sâu sắc thêm các chi tiết, sự việc trong truyện.
4. Những dấu hiệu của nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa
Nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa được tập trung ở cuối đoạn trích khi Phăng-tin chết. Đó là một cái chết bi thảm đầy thương tâm. Nhưng nhờ nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa mà cái chết đó không để lại dư vị bi lụy trong người đọc, trái lại, nó được bao bọc, sưởi ấm trong tình thương yêu của con người (Giăng Van-giăng) khiến cho Phăng-tin khi đã chết vẫn nở nụ cười trên môi và gương mặt sáng rỡ lên một cách lạ thường. Điều đó, trong thực tế, không thể có được, nhưng nghệ thuật lăng mạn chủ nghĩa lại cho phép nhà văn có thể nhưng chị đã đi vào cõi chẽt thật đẹp là nhờ nghệ thuật lãng mạn của Huy-gô, như chính ông đã viết: “Chết tức là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại.”
II. LUYỆN TẬP
1. Các em đọc kỹ văn bản in (những phần về nhân vật Phăng-tin) và tự làm câu này.
2. Vai trò của Phăng-tin trong diễn biến cốt truyện được xem như vai trò xúc tác thúc đẩy câu chuyện phát triển, đồng thời cũng là nhân vật để kiểm chứng sự thể hiện tính cách của hai nhân vật kia: Giăng Van-giăng yêu thương, cưu mang nàng như thế nào (khi sống và khi chết), còn Gia-ve thì có thái độ như thế nào trước người bệnh, trước người chết.
3. Sự phân tuyến nhân vật ở đây gần gũi với hệ thống nhân vật của văn học dân gian: chia thành hai tuyến Thiện, ác rạch ròi, phân minh, dứt khoát.