Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và bước vào hội nhập với kinh tế thế giới, bên cạnh những thành tựu đạt được về kinh tế – xã hội, thì tình trạng thất nghiệp đang là một trong những vấn đề nan giải và hết sức bức xúc. Hàng năm có từ 1,1 đến 1,2 triệu người bước vào tuổi lao động, nhưng khả năng thu hút lao động của nền kinh tế lại có hạn.
Bên cạnh đó, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, một bộ phận không nhỏ lao động do nhiều nguyên nhân khác nhau bị mất việc làm, đời sống rất khó khăn, ảnh hưởng đến trật tự an sinh xã hội.
Bảo hiểm thất nghiệp là chính sách có tính chiến lược và lâu dài, trước sức ép tình trạng thất nghiệp cao. Đây là biện pháp giúp đỡ thiết thực cho người lao động, bởi cùng với việc hỗ trợ một khoản tài chính bảo đảm ổn định cuộc sống trong thời gian không có việc làm thì mục đích chính của hình thức bảo hiểm này là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu sẽ sớm đưa người lao động thất nghiệp tìm được việc làm mới ổn định. Điều này góp phần quan trọng giảm gánh nặng ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp, ổn định và bảo đảm an sinh xã hội.
Bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động trong thời gian mất việc thì mục đích chính của bảo hiểm thất nghiệp là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm mới thích hợp và ổn định.
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, đây là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là công dân Việt Nam, có hợp đồng lao động từ 12 đến 36 tháng hoặc không xác định thời hạn.
Các đơn vị sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức xã hội; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
Đối tượng được trợ cấp thất nghiệp bao gồm:
Thứ nhất, là người lao động bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động, chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của Pháp lệnh cán bộ công chức mà chưa tìm được việc làm.
Thứ hai, trong vòng 24 tháng trước khi bị thất nghiệp, người lao động đã đóng BHTN được 12 tháng trở lên.
Thứ ba, người lao động phải đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội.
Thứ tư, chưa tìm được việc làm sau ít nhất 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội.
Người lao động đóng BHTN bằng 1% tiền lương, tiền công tháng ; người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng; hàng tháng Nhà nước hỗ trợ từ Ngân sách bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động tham gia BHTN và mỗi năm chuyển một lần.
Mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp. Tuỳ thuộc vào số năm người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp, nếu số năm đóng bảo hiểm thất nghiệp ít thì thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp với số tháng ít hơn. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp là 3 tháng nếu có đủ 12 tháng đến dưới 36 tháng đóng BHTN; 6 tháng nếu có từ đủ 36 tháng đến dưới 72 tháng đóng BHTN; 9 tháng nếu có đủ từ 72 tháng đến dưới 144 tháng đóng BHTN; 12 tháng nếu có từ đủ 144 tháng đóng BHTN trở lên…
Ngoài trợ cấp thất nghiệp, người lao động còn được hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm và được hưởng bảo hiểm y tế theo quy định.
Cụ thể, mức hỗ trợ học nghề cho người thất nghiệp trong trường hợp này bằng mức chi phí học nghề ngắn hạn theo quy định pháp luật về dạy nghề. Thời gian học nghề cho lao động không quá 6 tháng, tính từ ngày lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Còn số lao động sẽ được “hưởng lợi” hiện chúng tôi chưa có con số thống kê cụ thể. Tuy nhiên, chính sách bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực từ 1/1/2009, vì thế, người lao động chỉ được hưởng trợ cấp thất nghiệp sớm nhất là từ đầu năm 2010 (sau 12 tháng liên tục doanh nghiệp và người lao động nộp tiền vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp).
Chịu trách nhiệm dạy nghề cho người lao động trong trường hợp này sẽ do cơ quan lao động địa phương, cụ thể là Sở Lao động, Thương binh và Xã hội thông qua các cơ sở dạy nghề trên địa bàn, bao gồm các trường dạy nghề, trung tâm đào tạo nghề và cả trung tâm giới thiệu việc làm có tổ chức dạy nghề.