Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn Trao duyên

Tên thực của Truyện Kiều là Đoạn trường tân thanh, có nghĩa là tiếng kêu đứt ruột. Thực ra trong đó có vô vàn tiếc kêu thương. Mà trao duyên có lẽ là tiếng kêu đứt ruột đầu tiên khởi đầu một chuỗi dài đau thương chất chồng lên cuộc đời truân chuyên của một người con gái tài sắc. Thuý Kiều đứt ruột trao duyên. Và Nguyễn Du cũng đã viết nên cảnh trao duyên bằng những lời thơ tan nát can tràng.

Nỗi oan khiên bỗng đâu ập xuống gia đình, giáng họa lên đầu mọi người, không trừ một ai. Nhưng dường như Kiều muốn một mình hứng chịu tất cả. Tự nguyện bán mình chuộc cha,  đêm trước nàng đã trải qua một cuộc giằng xé âm thầm giữa một bên là mối tình đầu biết bao hứa hẹn và một bên là bổn phận làm con đối với ơn sinh thành. Cuối cùng những dằn vặt day dứt đã hết sau khi đã quyết chọn một con đường. Nào ngờ,  đó mới chỉ là khởi đầu,  dạo đầu. Hôm trước,  là chữ Tình và chữ Hiếu,  nó có phần chóng vánh. Còn hôm nay,  là giằng xé giữa chữ Tình và chữ Duyên,  nó mới thực sự bi kịch,  vĩnh viễn đau thương. Nỗi đau đớn đứt ruột trong tâm trạng Kiều hôm nay là sự tiếp tục của đêm trước. Bởi,  đã xác định vì chữ Hiếu thì phải làm nốt phần việc còn lại là trao duyên cho người khác.

Hôm qua là sự chọn lựa trong nhận thức, hôm nay mới chính thức mất mát trong tình cảm. Giá Kiều không phải là người tận tình,  tận tâm; giá nàng hời hợt đơn giản hơn một chút thôi,  chắc nàng không lâm vào bi kịch,  không rơi vào đau đớn đến thế. Đằng này duyên thì đã trao mà Tình càng thêm nặng! Thậm chí,  chính lúc mất Kim Trọng này lại thấy yêu,  thấy gắn bó với chàng Kim hơn bao giờ hết. Vì thế,  mỗi lời nàng nói,  mỗi việc nàng làm trong cái lúc trao duyên này đều như đứt từng khúc ruột. Chẳng biết Nguyễn Du đã hoá thành người trong cuộc sâu sắc như thế nào mà thấu được mọi lẽ nhường ấy. Thi hào mới thấy tường tận Tình và Hiếu chỉ là đầu mối,  là cái phần bên trên,  còn ở bề sâu,  cái phần nhức buốt chính là Tình và Duyên. Cảnh trao duyên. Là giằng xé của bi kịch ấy.

Đọc trích đoạn trao duyên,  ta dễ dàng nhận thấy nó tự hình thành ba phần. Phần đầu,  gồm 12 câu: Thuý Kiều lựa lời thuyết phục Thuý Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng; phần tiếp theo gồm 14 câu: Kiều trao kỉ vật lại cho Vân. Phần cuối,  gồm 8 câu: Kiều tạ từ với Kim trọng- con người tuy không hiện diện nhưng luôn sống trong tình yêu và nỗi đau của Kiều. Ban đầu,  nàng Kiều còn bình tĩnh,  càng về cuối càng lâm li,  càng về cuối càng chìm vào nỗi đau đớn tột bậc để rồi cuộc trao duyên từ biệt cứ muốn thành cuộc tử biệt chia li.

Trao duyên được mở đầu bằng hai câu thơ mà khi nói về vẻ đẹp của ngôn ngữ Truyện Kiều ít ai không nói đến. Nó giản đơn như những lời nói thông thường mà chân xác như mọi câu thơ hàm xúc nhất:

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Đúng là trọng lượng của câu thơ rời vào bốn chữ cậy,  chịu,  lạy,  thưa. Người ta không thể thay các chữ kia bằng bất cứ chữ nào khác. Tôi muốn nói thêm rằng: 4 chữ ấy mang đậm cái bi kịch của nàng Kiều. Với bốn chữ kia,  vị thế của hai chị em Thuý Kiều đã thay đổi,  đảo lộn. vẫn xưng hô là chị em,  mà thực tình trong đó là quan hệ giữa một ân nhân và một kẻ chịu ơn. Bốn chữ ấy đều là lời của kẻ dưới đang nói khó với người trên. Chị thành kẻ lép vế phải cậy cục luỵ phiền,  em thành người ban ơn. Để báo đáp ân tình trong muôn một cho chàng Kim,  Kiều đã phải nhún mình hạ minh,  đến thế! Nhưng trong cái cử chỉ tội nghiệp kia,  ta thấy tất cả sự cao khiết của một tấm lòng,  một phẩm cách. Rồi nàng kể,  nàng giãi bày thật nhanh,  thật rõ ràng ngành ngọn cho Vân hiểu vi sao mình phải lựa chọn cách này. Trong lời lẽ có phần khôn ngoan của Thuý Kiều cứ thấy lộ ra cái vẻ lo âu. Dường như Kiều phải cố gắng thuyết phục hết lời,  tận tình để cho em vì mình mà không thể thoái thác. Nàng đã viện đến cả cái chết để lời cậy nhờ nặng như lời uỷ thác:

READ:  Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suốt hãy còn thơm lây.

Nhưng ngẫm mà xem,  Kiều đâu phải dùng cái chết như một nghệ thuật thuyết phục! Trong suốt đoạn trao duyên này và cả trước đó nữa,  nàng luôn nghĩ đến cái chết như một kế cục u ám. Trong hoàn cảnh này,  đời đã đến thế này,  có còn gì để tha thiết nữa đâu,  vô nghĩa hết cả rồi,  người ra đâu còn muốn sống nữa! Càng yêu đời lại càng không muốn sống.

Đoạn Trao duyên phải là một cuộc chuyện trò,  nhưng rồi lại diễn ra như một màn dộc thoại. Thuý Vân hầu như không lên tiếng. Nàng im lặng chịu lời. Và thế là Kiều phải làm nốt cái phần việc cuối cùng và khó khăn nhất: trao lại kỷ vật cho Vân. Hôm qua nghĩ đến việc hi sinh mối tình,  Kiều đã nghĩ đến việc mất Kim Trọng. Và vừa rồi trong lúc lựa lời thuyết phục em gái,  cảm giác mất mát ấy có đến gần hơn. Nhưng có lẽ phải lúc này đây nó mới thực sự choáng ngợp tâm hồn nàng. Còn giữ kỉ vật,  ít nhiều người ta vẫn có cái ảo giác người yêu vẫn còn là của mình,  vẫn trong mình. Chỉ đến khi tự tay cầm kỉ vật trao đi,  người ta mới thật rơi vào hẫng hụt. Bắt đầu từ giây phút này đây,  cùng với kỉ vật này đây,  chàng Kim sẽ vĩnh viễn thuộc về người khác! Câu thơ như một nỗi nghẹn ngào:

Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.

Quả là,  hai chữ của chung chất chứa bao đau xót. Kỉ vật tình yêu chỉ thiêng liêng khi nó là tín vật,  là nhân chứng thầm kín của riêng hai người thôi. Còn bây giờ,  từ bây giờ,  nó đã thành của chung! Nhưng câu thơ còn giấu trong nhịp điệu của nó một nỗi đau sâu kín của nàng Kiều. Hai chữ này như dằn lòng,  như dang dở. Lý trí đã quyết định trao duyên,  trao kỷ vật. Song tình cảm vẫn cố trì hoãn,  níu giữ. Vì thế mà cái động thái trao kia cứ dùng dằng. Kỷ vật lìa khỏi tay người như cũng vật vã không yên. Cố dằn lòng mà không thể cầm lòng!

Người giản đơn có thế nghĩ trung đại không phức tạp đến thê. Nhưng cho dù thời nào thì bản chất tình yêu vẫn không thế chia sẻ! Trái tim yêu thời nào có lẽ cũng đau như vậy thôi. Trao kỉ vật cho Thuý Vân và dặn dò em,  nhưng có lẽ qua Thuý Vân,  Kiều muốn dặn dò Kim Trọng. Lời nàng lâm li,  tức tưởi. Nỗi đau trong lòng cứ quặn lên mãi. Kiều nhìn khắp lượt những đồ vật thân yêu,  những chứng nhân lặng lẽ trong những giây phút nồng nàn hạnh phúc của mình với Kim Trọng: Chiếc thoa với bức tờ mây,  phím đàn với mảnh hương nguyền,  lò hương ấy,  tơ phím này… Và hình dung,  chỉ ngày mai thôi chúng sẽ lại chứng kiến những phút giây nồng nàn như thế của Kim Trọng với một người khác,  cho dù người ấy có là em gái mình đi chăng nữa… cũng không thể chịu nổi. Nguyễn Du có lẽ đã hiểu thấu những tâm tư khuất lấp mà chân thực vô cùng ấy,  cho nên đã viết những câu thật lắng đọng:

Mai sau dù có bao giờ
Đốt Lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Có lẽ nhà thơ Vũ Cao đã có lý khi cho rằng cái câu Mai sau… nghe thật không đâu mà lại chính là câu thơ khó viết. Đã đành Kiều đang hình dung về mai sau,  một cái mai sau rồi sẽ đến. Nhưng sao lại có hai cái tiếng dù có như một giả định về một việc khi xảy ra như vậy? Hai chữ dù có như bỗng nhói lên trong cái âm điệu xuôi chiều của câu thơ. Nó cho thấy lòng nàng không dễ nuôi yên,  nàng không muốn có cái cảnh bao giờ trớ trêu ấy xảy ra. Tấm tình ấy đâu đã chịu tắt lửa lòng! Kiều hình dung mình sẽ chết rõ quá và tội quá! (chứ không còn chung chung ngậm cười chín suối như ở phần trên!) Mối tình sâu nặng với Kim Trọng nàng vẫn cứ mang theo như khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan. Vì sự thiết tha ấy oan hồn của nàng còn trở về dương thế! Thậm chí nàng còn hình dung rõ mồn một mình sẽ về trong gió trong cây cỏ thế nào. Hai chữ hiu hiu nghe mà gai người. Người ta như thấy trong đó cả sự hiển linh. Hai tiếng hiu hiu chấp chới giữa hai thế giới thực tại và hư vô,  chập chờn giữa hai cõi thế: cõi âm và cõi dương! Kiều hi sinh tất cả,  cho tất cả. về dương thế,  nàng chỉ xin cho mình có một chén nước thôi. Một chút nhớ thương của người sống? Một chút tình cũ? Hay một chút duyên thừa? Chi một chén nước thôi,  một chút thế thôi mà nàng đã thấy được an ủi,  cảm thông nhiều lắm:

READ:  Em có nhận xét gì về câu nói của Hoài Thanh khi đọc bài Nhớ rừng: Thế Lữ như một vị tướng điều khiển đội quân Việt ngữ với một mệnh lệnh không thể cưỡng lại được?

Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền ghì trúc mai
Dạ đài cách mặt,  khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan.

Khi hình dung mình chết. Và Kiều còn thấy rõ là minh thác oan! Hai chữ thác oan có biết bao là tình là hận!

Những việc cần làm thì đã làm rồi. Sợi dây níu buộc đã cắt lìa rồi. Nhìn vào lòng mình,  đời mình,  bấy giờ Kiều mới thấy rõ mất mát để lại trong lòng cả một nỗi trống hoang,  hụt hẫng. Nàng quên đi em Vân trước mặt,  quay vào với nỗi đau trong lòng. Giờ đây với nàng,  chỉ còn nỗi đau kia là hiện hữu,  nỗi đau đang choáng ngập cả lòng nàng. Quên mất thực tại để chỉ chìm sâu vào trong lòng,  đấy là lúc bi kịch đang dâng lên trầm trọng. Kiều như phân trần,  thanh minh,  tạ lỗỉ với chàng Kim. Mong muốn ở chàng một sự cảm thông,  thấu hiểu:

Bây giờ trăm gãy,  bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Nghĩ về quá khứ muôn vàn ái ân mà đau. Nghĩ đến bây giờ một thực tại quá phũ phàng trâm gãy bình tan mà đau. Nghĩ đến mai sau…dạ đài khuất mặt khuất lời mà càng bội phần đau đớn. Tâm tư Kiều bị vây khốn,  bị dim ngập giữa bao đau thương. Muôn vàn ái ân đã hoá thành muôn vàn đớn đau! Ngán ngẩm cho số kiếp đen bạc của mình,  nàng cất lên cái tiếng than thân thăm thẳm cửa người đàn bà. Nàng sa vào mặc cảm phũ phàng. Mở đầu thì lạy em gái,  bây giờ thì phải lạy cả người yêu. Nàng cứ thấy mình là kẻ bội tình và những mong được lượng thứ:

Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ta nghe trong đó tiếng vọng của những câu thơ mà Nguyễn Du đã bao lần kêu lên đầy thống khổ cho những thân phận đàn bà tài sắc:

Đau đớn thay phận đàn bà – Chém cha cái số hoa đào.

Và cuối cùng như oà lên,  câu thơ không nói gì đến nước mắt,  nhưng chúng ta biết lời Kiều đang vỡ ra trong nước mắt,  nức nở cay cực:

Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Vậy đấy,  lời trao duyên đứt ruột đã hoá thành lời trăng trối!

Hình như cái tố chất đặc thù của người nghệ sĩ chính là sự cảm thông. Khả năng cảm thông sâu sắc khiến cho người nghệ sĩ đã hoá thân thành người trong cuộc,  nhập thân thành người trong cuộc đến từng thoáng gợn mơ hồ nhất của xúc cảm để nói lên những tiếng nói sâu xa kín khuất nhất của cỗi lòng. Nguyễn Du đã làm được điều đó. Nguyễn Du đã hoá thành Thuý Kiều. Đến nỗi Thuý Kiều trao duyên mà ngỡ như chính Nguyễn Du đang đứt ruột trao duyên.