Phân tích mô hình và nội dung chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế của Nhật Bản?

Phân tích mô hình và nội dung chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế của Nhật Bản? Những vấn đề cần lưu ý và giải pháp đối với VN khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Nhật Bản? (Liên hệ với một mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng cụ thể của VN?

Nền kinh tế NBlúc đầu cũng chỉ là một nền nông nghiệp chủ yếu dựa vào việc sản xuất các mặt hàng có hàm lượng lao động cao. NBđã phát huy sức mạnh truyền thống là một nước chuyên chế biến XKcác sản phẩm bằng nguyên liệu NKtừ nước ngoài, đã được hình thành từ trước chiến tranh nhằm nhanh chóng mở rộng sản xuất và tăng cường XK. Với hướng đi đó, NBđã nhanh chóng trở thành nước đứng đầu thế giới về sản xuất sợi tổng hợp, cao su, gang, xe ôtô khách và là nước đứng thứ ba trên thế giới về sản xuất bột giấy, phân đạm, xi măng đồng và nhôm. Trong sản xuất công nghiệp, NBđã áp dụng chính sách tăng về khối lượng nhưng phải tăng về số lượngsản phẩm mới như cao su tổng hợp, hàng điện tử, hoá dầu,…Với hướng đi đó, vào những năm đầu thập kỷ 70 NBđã trở thành một trong những nền công nghiệp tiên tiến nhất thế giớivàcũnglà một trong những quốc gia thương mại lớn nhất trên thế giới. Từ năm 1945, XKtăng trưởng đáng kể và đến năm 2010đạt hơn 816 tỷ USD; NK đạt trên 730 tỷ USD, và thặng dư thương mại năm này là trên 80 tỷ USD. Sự mất cân bằng trong cán cân thương mại với NBđã khiến nhiều nước lo ngại. Các nước này cho rằng NBđã dựng lên các rào cản đối với hàng hoá nhập khẩu từ các quốc gia khác. NBđã có một số động thái tích cực để giải quyết vấn đề này.Sau đây là một số chính sách thươngmại quốc tế cơ bản của NB.

a. Giai đoạn 1912 –1945

Trong giai đoạn này, NBthực hiện mô hình chính sách thúc đẩy XKvà bảo hộ có chọn lọc. Chính phủ đẩy mạnh hơn nữa việc bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước, tiếp tục trợ cấp và giới thiệu những công nghệ tiên tiến của thế giới cho các ngành công nghiệp nặng và hóa chất. Bên cạnh đó, NB tăng cường XKcác hàng chế tạo công nghiệp nhẹ. Mở rộng quy mô thương mại quốc tế, độc chiếm các thị trường châu Á.

Các biện pháp mà Chính phủ NBđã thực hiện là:

(1) Hỗ trợ cho sản xuất trong nướcphát triển như có các chính sách ưu đãi về thuế, ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp.

(2) NKcông nghệ tri thức và kinh nghiệm phát triểncủa nước ngoài.

(3) Phá giávà giữ ổn định giá trị đồng Yên ở mức 30 xu nhằm tăng cường XK.

b. Giai đoạn 1945 –1985

Sau chiến tranh thế giới thứ 2, NBtiến hành xây dựng, khôi phục lại nền kinh tế bị tàn phá trong chiến tranh. Và hoạt động thương mại quốc tế đã đưa lại những đóng góp lớn lao cho nền kinh tế NBtrong giai đoạn này. Chính sách thương mại quốc tế của NBnhằm đạt thặng dư thương mại, tích lũy vốn phục vụ xây dựng, phát triển đất nước.

Mô hình chính sách thương mại quốc tế đã được Chính phủ NBáp dụng là thúc đẩy XK, chỉ nhập nguyên, nhiên liệu thô và công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, hạn chế NKsản phẩm cuối cùng.
Các biện pháp thực hiện của Chính phủ NB:

(1) Cung cấp tín dụng cho các công ty sản xuất hàng XK. Áp dụng các lãi suất ưu đãi dành cho các công ty này để hỗ trợ họ trong sản xuất và XK.

(2) Chính sách thuế ưu đãicho các công ty tham gia vào hoạt động XKnhư thuế NKđầu vào, thuế thu nhập công ty. Sau khi gia nhập IMF, Nhật Bản đã phải giảm bớt các chính sách ưu đãi XKvà duy trì thuế ưu đãi này đến những năm 1970, trong đó chỉ tập trung vào các nhóm ưu đãi thuế cho phát triển thị trường và xúc tiến XK.
(

3) Thành lập các cơ quan chức năng và tổ chức hỗ trợ XK:

– Ngân hàng hỗ trợ phát triển, ngân hàng XK. Các ngân hàng này cung cấp vốn, tín dụng với lãi suất thấp cho các doanh nghiệp sản xuất hàng XKnhằm hỗ trợ họ
trong chiến lược XKchung.

– Các tổ chức xúc tiến thương mại (JETRO). Các tổ chức này ban đầu có chức năng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ trong nước tiếp thị ra thị trường thế giới cung cấp thông tin và tiếp thị cho hoạt động XK. Đến những năm 1970, khi những chính sách ưu đãi XK của Chính phủ được cắt bỏ thì vai trò của các tổ chức này cũng thay đổi sang hướng thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào NB.

– Các công ty thương mại tổng hợp. Các tổ chức này là đầu mối cung cấp đầu vào sản xuất, bao tiêu sản phẩm đầu ra và thu thập, cung cấp thông tin thị trường, tìm kiếm các nguồn tài chính cho các công ty sản xuất và kinh doanh XKnhỏ và vừa. Các công ty này đã đóng vai trò rất tích cực trong hoạt động XK.

(4) Thực hiện hạn chế NKsản phẩm cuối cùngbằng các công cụ chủ yếu nhưthuế quan, biện pháp hạn chế XKtự nguyện. Tuy nhiên, đến những năm 1980, khi NB đã đạt được sự phát triển kinh tế thần kỳ, khiến cả thế giới kinh ngạc, nhiều ngành sản xuất trong nước vươn lên có sức cạnh tranh với thị trường thế giới thì chính sách này đã vấp phải sự phản đối từ nhiều nước. Do đó, NBđã giảm mạnh thuế quan đối với danh mục hàng hóa. Mức độ giảm thuế quan của NBnói chung là lớn so với các nước khác và mức thuế quan NKthấp nhất so với các nước phát triển.

c. Giai đoạn 1986đến nay

Giai đoạn này NBthực hiện chính sách mở cửa thị trường và tự do hóa nhập khẩu. NBvẫn duy trì ổn định mức kiếm soát XKnhằm bảo đảm an ninh quốc gia và nhu cầu tiêu dùng trong nước một cách thích hợp đối với nông nghiệp và hàng hóa tiêu dùng cơ bản khác. Tuy nhiên, về cơ bản, NB định hướng cho nền sản xuất hướng ra XK.Đểthúc đẩy XK trong giai đoạn này, NB thực hiện một số biện pháp hỗ trợ XK sau:

(1) Áp dụng biện pháp khuyến khích và ưu đãi cho các nhà XKnhư: miễn giảm thuế cho các công ty XNK; thông qua các ngân hàng phát triển của NBvà ngân hàng XNK, cấp vốn với lãi suất thấp, ưu đãi cho các doanh nghiệp XK.

READ:  Tại sao hầu hết các quốc gia khi xác định mức đóng góp Bảo hiểm xã hội đều căn cứ vào tiền lương ?

(2) Xúc tiến thương mại: xây dựng các phòng giới thiệu sản phẩm, triển lãm hàng của NB ở nước ngoài; thăm dò và tìmkiếmnhững bạn hàng tương lai để giới thiệu với các doanh nghiệptrong nước,…;hiện nay: khuyến khích XKhàng nông nghiệp, chủ yếu bằng cách cung cấp thông tin cho người tiêu dùng ở nước ngoài.

(3) Hỗ trợ tín dụng cho XK: Chính phủ NBthành lập ngân hàng XK, nay là ngân hàng XNK(EXIMBANK) để hỗ trợ tín dụng cho cho những dự án XKcó kim ngạch lớn như sản xuất, chế tạo tầu biển, thiết bị, thép…

(4) Hàng năm, hội nghị tham vấn cấp caobàn về XK(gồm đại diện của chính phủ và giới kinh doanh, giới học giả…) được tổ chức bàn về mục tiêu XK cho năm tới và thảo luận các biện pháp hỗ trợ cụ thể.

(5) Đưa ra các tiêu chuẩn công nhận các doanh nghiệp có nhiều cống hiến cho XK. Hàng năm kiểm điểm, đánh giá kết quả XKđể biểu dương, tặng thưởng bằng biện pháp cấp tíndụng với lãi suất thấp và miễn giảm thuế đặc biệt cho các doanh nghiệp này.

(6) NBcó một chính sách kiểm tra chất lượng hàng XK rất khắt khenhằm không cho hàng kém phẩm chất lọt ra thị trường bên ngoài để giữ uy tín. Chính việc kiểm tra chặt chẽ chất lượng hàng XKcủa NBđã làm cho những nhà NKtin tưởng vào hàng của nước nàyvà do đó góp phần thúc đẩy việc tăng XK NB.

(7) Tăng cường viện trợ kinh tế cho Đông Nam Ávà là nước viện trợ chính cho Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan, vượt xa cả Mỹ, nhờđó tạo thuận lợi cho việc bán các mặt hàng chế tạo của NBvà thúc đẩymạnh việc buôn bánnói chungcủa NBvới khu vực này.

(8) Các chính sách tài chính –tiền tệ: Để cải thiện tình hình thu chi quốc tế, Chính phủ NBđã áp dụng một loạt các biện pháp về quản lý ngoại hối, mua bán ngoại tệ ở trong nước, kết toán quốc tế, vốn lưu động và tỷ giá hối đoái. Ngân hàng NB, thông qua việc quản lý ngoại tệ, đa sử dụng biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái để tác động đến hoạt động ngoại thương.

Thực hiện tự do hóa NKbằng các biện pháp sau

(1) Giảm thuế NK: Thuế quan là công cụ chính trong chính sách thương mại NB nhưng đa số hàng NKcủa NBđược miễn thuế hoặc áp dụng mức thuế quan thấp.

– Năm 2008, tỷlệ thuế quan trung bình áp dụng nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) giảm xuống còn 6,1%. Gần 99% dòng thuế quan có giới hạn và hầu hết tỷ lệ thuế quan áp dụng nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc MFN đều xấp xỉ với tỷlệ MFN cho phép.

– Không đánh thuế theo giá hàng,đặc biệt đối với các sản phẩm nông nghiệp.

– Tỷlệ thuế quan ưu đãi được áp dụng đối với 141 nước đang phát triển và 14 vùng lãnh thổ thuộc Hệ thống ưu đãi chung (GSP). Năm 2007, Chính phủ NBđã mở rộng thêm danh mục các hàng hóa được hưởng mức trợ cấp ưu đãi tới 49 quốc gia kém phát triển, từ mức 86% tăng lên 98% đối với tất cả các hạng mục thuế quan.

Các quốc gia hưởng lợi nhiều nhất từ GSP NBlà Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philippin và Việt Nam. Tỷlệ thuế quan trung bình áp dụng đối với các nước trong hệ thống GPS là 4,9% và đối với các nước đang phát triển là 0,5% . Tỷ

(5)Chế độ thông báo NK: Các nhà NKcó ý định hoặc đã NKhàng hoáphải đệ trình lên METI một bản thông báo NKthông qua ngân hàng quản lý ngoại hối thanh toán cho lô hàng đó. Chế độ này được sử dụng để xác nhận các khoản thanh toán của các ngân hàng quản lý ngoại hối. Bản thông báo NKkhông cần phải xuất trình đối với các mặt hàng “tự do NK” sau:

– Các hàng hoá đặc biệt theo điều 14 của Luật kiểm soát NK, gồmlô hàng có giá trị nhỏ hơn 5 triệu Yên.

– Các hàng hóa mà nhà NKphải thanh toán toàn bộ tiền hàng.

(6)Hình thức tổ chứcsản xuất, lưu thông, phân phối. Điển hình làcác tập đoàn kinh tế “Keiretsu” và hệ thống phân phối:

– Các tập đoàn kinh tế “Keiretsu”: là một hệ thống kinh tế, và tổ chức kinh doanh kiểu NBvà thường được hiểu là các tổ hợp hay tập đoàn công nghiệp khổng lồ của NB. Keiretsu là một trong những đặc trưng nhất của nền kinh tế NBvà thể hiện một sự cạnh tranh sắc bén mà các nước khác khó có thể địch được. Nó tạo ra hàng rào ngăn cản hàng hoá nước ngoài xâm nhập vào thị trường NB.

– Hệ thống phân phối: Chức năng của hệ thống phân phối ở NBkhông có gì khác biệt nhiều so với các nước khác. Nó giúp cho việc di chuyển hànghoá từ sản xuất đến tiêu dùng, đồng thời đóng vai trò là kênh bán hàng cho nhà sản xuất và kênh mua hàng cho người tiêu dùng. Hệ thống phân phối thường bao gồm hai cấp: cấp bán buôn và cấp bán lẻ. Có thể nói hệ thống phân phối ở NBrất phức tạp, và có các đặc điểm chủ yếu sau:

+) Có rất nhiều cửa hàng bán lẻ, hoặc mật độ cửa hàng bán lẻ rất lớn.

+) Giữa các nhà chế tạo và các nhà bán lẻ tồn tại rất nhiều cấp phân phối trung gian.

+) Tồn tại hệ thống duy trì giá bán lẻ. Giữa các nhà sản xuất và bán lẻ có sự liên kết rất chặt chẽ, thể hiện ở chỗ các nhà sản xuất cung cấp vốn cho các nhà bán buôn; các nhà bán buôn lại cung cấp tài chính cho các nhà bán lẻ. Các nhà sản xuất  thực hiện chế độ chiết khấu hoa hồng thường xuyên và rộng rãi, sẵn sàng mua lại hàng nếu không bán được, các nhà bán lẻ thường chỉ kinh doanh một số hàng hóa của các nhà sản xuất nhất định ở trong nước. Mối quan hệ giữa các nhà sản xuất với các nhà phân phối, bán lẻ rất khăng khít, bền vững khiến cho hàng hoá nước ngoài rất khó khăn thâm nhập thị trường NB, m ở rộng đại lý tiêu thụ.

(7)Biện pháp khác: Một biện pháp gián tiếp khác NBthường sử dụng để hạn chế NK hàng hoá trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế là đưa ra lãi suất tiền gửi cao để thu hút tiền gửi tiết kiệm vào ngân hàng, giảm mức tiêu thụ của người dân. Ngoài ra,

READ:  Vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường

NBcòn sử dụng nhiều biện pháp khác như hạn chế những giao dịch ngoại tệ, chỉ cho phép một tỷ lệ % nhất định về việc chuyển lợi nhuận bằng ngoạitệ ra nước ngoài. NBbắt đầu điều chỉnh lại chính sách thương mại vào đầu những năm 2000 theo hướng tăng cường ký kết các hiệp định buôn bán khu vực. NBkhông chỉ tìm cách ký các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thông thường, đòi hỏi phải loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với mậu dịch hàng hóa, mà còn nhấn mạnh đến sự cần thiết phải đẩy mạnh hợp tác kinh tế toàn diện trong các lĩnh vực như dịch vụ, di chuyển lao động. Việc ký kết các hiệp định thương mại khu vực được coi là cách thức tốt nhất để đạt được mục tiêu cuối cùng của NBlà thiết lập một cơ cấu phân công lao động quốc tế mới ở Đông Á, ở đó NBchiếm giữ vị trí cao nhất.

2. Đánh giá tác động của chính sách đến hoạt động XNK của NB Xuất khẩu:

– Nhờchính sáchmở cửa nền kinh tế của mình, NBcũng tạo được sức ép để các nước đối tác mở cửa thị trường cho sản phẩmXK của mình.

– Các tiêu chuẩn mang tính hành chính –kỹ thuật do NBđề ra nhìn chung là khá cao. Việc các nhà sản xuấtNBthực hiện các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá đã giúp họ thành công trong cạnh tranhchất lượngtrên thương trườngthế giới.

– Sự thay đổi trongchính sách mặt hàng của NB qua các thời kỳ đã có tác động tích cực trong việc nâng cao nhanh chóngchất lượng hàngXK, từ những mặt hàng “sơ cấp”như dệt may đến hànghóa“thứ cấp”, và các mặt hàng công nghệ cao như đóng tàu, chế tạo máy bay;hóachất;các sản phẩm công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo khác như ô tô xe máy, máy móc, thiết bị điện tử cao cấpnhư máy tính, Robot, mạch tổ hợp, thiết bị nghe nhìn và dồ điện dân dụng hiện đại,…

-Ảnh hưởng của chính sách tỷ giá:

+) Từ năm 1993 đến 1995, do sự điều chỉnh làm đồng Yên tăng giá mạnh so với

USDmà XKgiảm rõ rệt từ mức tăng trưởng bình quân 10% /năm trong những năm nửa sau thập kỷ 80 xuống 6,6% năm 1993; 5,1% năm 1994 và 2,6% năm 1995.

Nhập khẩu:

– Chính sách thương mại của NBlà khuyến khích NKcác hàng hoá nhằm đa dạng hoá nền kinh tế cũng như tăngtính năng động cho mỗi ngành sản xuất trong nước. Từ đó, tăng cường cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng và sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước thông qua cải tiến công nghệ, kỹ thuật, quản lý…

– Trong khi theo đuổi chính sách mậu dịch tự do, NB vẫn có cơ chế bảo hộ ngành sản xuất trong nước một cách hiệu quả. Thay cho những biện pháp bảo hộ mang tính lộ liễu như áp đặt lệnh cấm, hạn chế số lượng hoặc áp đặt thuế suất NKcao, NBđã sử dụng các biện pháp bảo hộ được lồng vào những lý do chính đáng như để bảo vệ những ngành sản xuất trong nước trước những hành động thương mại không lành mạnh, bảo vệ sức khỏe con người, kiểm soát chất lượng, môi trường, quy định về an toàn thực phẩm, điều kiện lao động, kiểm soát dịch bệnh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, ghi nhãn hàng hoá.

– Người NBcó thói quen đưa ra quyết định mua hàng căn cứ vào dấuchứng nhậnchất lượng trên bao bì. Họ coi đó như là sự đảm bảo độ tin cậy về chất lượng hàng hoá được mua. Các nhà XKcó ý định thâm nhập vào thị trường NB cần có được dấu chứng nhận JIS, JAS hoặc Ecomark cũng như chế độ xác nhận trước về thực phẩm NKcác loại khác cho sản phẩm của mình để đảm bảo rằng các sản phẩm này có được tiêu chuẩn tối thiểu tại thị trường NB, từ đó dễ dàng cho việc tiêu thụ hàng hoá. Hơn nữa,thực tế cho thấy nếu chất lượng của một sản phẩm đã được thị trường NBchấp nhận thì sản phẩm đó hoàn toàn có thể cạnh tranh được ở các thị trường khác.

Ví dụ: hiện nay, Thái Lan rất quan tâm đến chế độ này và 8 nhà XK của Thái đã được Chính phủ NBcấp giấy chứng nhận cho 27 chủng loại thực phẩm. Thái Lan là nước thứ tư, sau Mỹ, Australia và Đài Loan, được Chính phủ NBcấp giấy chứng nhận này.

– Ảnh hưởng của chính sách tỷ giá: 1993 –1995, (thời kỳ đồng Yên tăng giá mạnh so với USD): tốc độ tăng trưởng NK của NBnăm 1993 tăng 3,8%; năm 1994 tăng 13,5% và năm 1995 tăng tới 22,5%.

3. Bài học cho Việt Nam

Xuất khẩu:

– Nâng cao chất lượng hàng XK

– Các biện pháp hỗ trợXK: cấp tín dụng cho XK; hỗ trợ doanh nghiệp về tìm kiếmthị trường, quảng bá sản phẩm,.. thông qua hoạt động xúc tiến thương mại; tăng cường tổ chức có hiệu quả các cuộc hội thảovề đề tài XK có sự tham gia của Chính phủ, các doanh nghiệp, các học giả, chuyên gia,…

– Đầutư nghiên cứu cụ thể và có kế hoạch phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ.

– Tham gia tích cực hơn vào các tổ chức kinh tế, từ đó ký kết các Hiệp định kinh tế –thương mại,…

-Cải thiện môi trường đầu tư trong nước, đồng thời khuyến khích đầu tư ra một số nước kém phát triển hơn như các nước châu Phi, Trung Đông để khai thác các lợi thế có lợi cho quan hệthương mại với các thị trường này. Đây là những thị trường được đánh giá làcó sức hấp dẫn nhất hiện nay đối với các nhà đầu tư Việt Nam.

Nhập khẩu:

– Để cải thiện hiện tượng hàng NK ồ ạt, tràn lan mà chất lượng kém như hiện nay, đặc biệt là sản phẩm NK từ Trung Quốc, cần có quy định cụ thể và chặt chẽ hơn về chủng loại và tiêu chuẩn hàng NK, các cơ quan tổ chức có trách nhiệm trong kiểm tra, kiểm soát hàng NK cần hoạt động nghiêm túc hơn.

– Có biện pháp hạn chế hiện tượng tiêu cực trong cấp giấy phép và hạn ngạch NK