Truyện cổ tích Việt Nam
GIÁP HẢI
Vào thời nhà Lê, ở làng Công Luận vốn thuộc trấn Kinh Bắc ngày đó có người đàn bà góa nọ nghèo khổ và không có chỗ nương tựa. Bà mở một hàng nước bán ở ven đường từ rất lâu để kiếm tiền sống qua từng ngày.
Vào một ngày kia, có một ông khách lạ vào hàng nước của bà để uống nước. Khi rời đi ông ta bỏ quên ở hàng nước của bà một chiếc túi, bên trong đựng đầy bạc. Thấy vậy, bà liền đem chiếc túi đầy bạc ấy cất đi. Mấy ngày sau đó, ông khách hôm bữa liền trở lại với bộ dáng hớt ha hớt hải, bà biết ý nên thủng thỉnh đem túi bạc kia ra trả cho ông ta.
Ông khách nhận lại túi bạc, cẩn thận đếm lại số bạc trong túi thì thấy số bạc ngày ấy ông quên vẫn còn nguyên. Ông ta vui mừng hết lời cảm ơn, còn có ý định đem một nửa số bạc trong túi để biếu bà hàng nước.
Nhưng người đàn bà ấy lại lắc đầu và nói:
Đó không phải tiền mồ hôi nước mắt của tôi làm ra, làm sao tôi dám nhận đây.
Ông khách thấy vậy vẫn cố nài nỉ bà, nhưng bà lại nhất định không chịu nhận, còn nói thêm rằng:
Nếu như tối thực có lòng tham của, tôi đã chẳng ngồi ở đây để gom nhặt từng đồng kẽm như thế này.
Nghe bà nói, ông khách cũng ngạc nhiên, ông ta chưa từng gặp được người nào lại trọng nghĩa mà khinh tài như bà hàng nước này. Bởi vậy ông mới ân cần bảo rằng:
Tôi chính là thầy địa lý chính tông vốn ở Bắc quốc tới đây. Bà thực là một người có tấm lòng vàng, vì vậy chắc chắn tất cả các con các cháu sẽ được hưởng phần phúc dày của bà. Bà hãy cho tôi biết phần mộ của tổ tiên bà ở nơi nào, hãy chỉ cho tôi biết, tôi sẽ giúp bà tìm một ngôi đất quý hiển.
Bà hàng không suy nghĩ nhiều bèn trả lời:
Tôi bây giờ cũng đã xế bóng rồi. Chồng con, anh em cũng chẳng còn lấy một ai, dù cho có được đất tổ thì cũng chẳng thể làm gì được. Còn tôi, cứ sống với cái nghề hàng nước là thấy đủ lắm rồi.
Tuy nhiên ông khách nọ vẫn cố gắng tìm những lời lẽ mong người đàn bà hàng nước xiêu lòng. Ông ta nói rằng mình mới tìm được một kiểu đất mà có thể phát trạng nguyên tể tướng, cũng ở ngay sát gần đây mà thôi, thực rất hiếm có. Nếu như có thể táng mồ tổ của gia đình vào nơi đó thì sau này khi tuổi đã về già thì chắc chắn sẽ có được nơi nương tựa mà không ai sánh bằng.
Ông ta cũng nói thêm rằng bởi vì bà là một người phúc đức, vì vậy rất xứng đáng để được hưởng những vinh hoa phú quý đó, vì vậy không nên chối từ mãi.
Vì thấy ông khách này bàn vào mãi nên sau cùng bà hàng nước cũng ưng thuận, sau đó liền đưa ông ta ra đồng và chỉ vào ngôi mộ của cha mình, cho phép ông ta lo chuyện cải táng. Sau khi công việc xong xuôi cả, trước khi nói lời giã từ, ông thầy địa lý ấy cũng không quên dặn bà hàng nước rằng hãy cố gắng hết sức mình để giúp đỡ cho những người gặp nguy, những kẻ gặp khó, như vậy thì phúc đức cũng sẽ tự mình đến với bà sớm thôi.
Mấy tháng sau, một ngày nọ khi trời vừa chập tối, bầu trời như sắp nổi cơn mưa to gió lớn thì bà hàng nước bỗng nhiên nghe thấy tiếng cầu cứu ngoài cửa. Khi bà ra mở cửa thì trông thấy một người đàn ông chỉ đóng độc một chiếc khố, cả người ông ta đều ướt sũng, còn đang rên lên hừ hừ. Ông ta nói mình là người ở làng bên cạnh, bởi vì đi đánh giậm xa nhà không may bị cảm lạnh, lại vì trời nổi cơn mưa gió nên không thể nào về nhà cho được, bởi vậy nên muốn xin vào đây nghỉ nhờ một buổi.
Nhìn thấy người này cứ run lẩy bẩy, nhìn nước da thì tái nhợt, còn tay chân thì lại lạnh toát, người đàn bà ấy cũng thấy thương hại thay, lập tức dìu vào trong nhà, còn đốt lửa lên cho ông ta sưởi. Không chỉ thế, bà còn đi lấy gạo thổi cơm cho ông ta ăn nữa.
Lúc bấy giờ là khoảng tháng 10, khí trời rất là lạnh, mà nhà bà thì chỉ có duy nhất một chiếc chõng cùng một chiếc chiếu, nhưng bà không ngần ngại mà nhường lại cho khách nằm. Nhưng bởi vì trời khuya quá rét nên bà cũng đành phải ghé lưng bên cạnh mà nằm.
Sau một giấc ngủ khá say thì người đánh giậm rốt cuộc cũng đã bớt mệt và tỉnh lại. Hai người cùng ở trong một gian nhà vô cùng vắng lặng, cuối cùng là không cách nào có thể ngăn lửa dục. Tuy nhiên không may cho người đàn ông kia, ông ta bởi vì bị hàn thấp ngộ phòng, vì vậy mà vừa qua đợt ân ái thì liền lăn ra bất tỉnh nhân sự.
Thấy người đánh giậm ấy đã chết, bà hàng nước cũng sợ cái chết của ông ta sẽ liên lụy đến bản thân mình, vì vậy nhân trời đêm tối liền đem thây của người bạn một đêm này vùi xuống nơi chân đê.
Từ ngày đó, bà hàng nước cũng mang thai, không bao lâu sau khi đã đủ ngày đủ tháng thì bà sinh ra được một đứa con trai kháu khỉnh. Mặc kệ những lời nhiếc móc từ bà con lối xóm, bà vẫn hết lòng thương yêu và nuôi nấng đứa bé, chăm sóc con trai một bước cũng không chịu rời.
Không may khi đứa bé được bốn tuổi, vào một ngày nọ khi đang một mình lững thững chơi ở bờ sông thì bất ngờ có một người lái buôn đi qua. Ông ta bởi vì thấy thằng bé này mặt mũi khôi ngô nên tìm đủ mọi cách dỗ dành để đưa nó xuống thuyền, sau đó liền dong buồm chạy mất.
Chiều đến, bà hàng nước ngóng mãi mà chưa thấy con trai trở về thì rất lo lắng bèn đâm bổ đi khắp nơi để tìm kiếm. Tìm mãi mà không thấy con thì bà đoán ngay rằng có thể nó đã ngã xuống sông, cũng có thể là bị mẹ mìn dụ dỗ đi mất rồi. Bởi vậy không cách nào khác ngoài việc gạt nước mắt rồi trở về nhà.
Lại nói tới người lái buôn nọ, ông ta họ Giáp, vốn là người ở làng Dĩnh Kế. Bởi vì ông ta không có con trai, từ khi mà bắt trộm được một đứa bé trai kháu khỉnh thì mừng lắm liền đặt tên cho nó là Hải, còn bắt nó gọi mình là cha, từ ngày đó cũng nuôi nấng và chăm chút cho nó như con đẻ của mình vậy.
Vào năm Hải lên sáu tuổi thì nó được cha mình cho cắp sách đi học. Vốn tính thông minh và lanh lợi nên Hải càng học càng tấn tới. Vào năm mười chín tuổi thì Hải đã thi đỗ được á nguyên, nhưng lần thi hội thứ hai lại bị hỏng, sau đó phải tìm thầy để học thêm. Sau cùng được cha cho tiền lưng gạo bị để đến kinh đô theo học ở trường của một cụ nghè.
Vào một ngày nọ khi Hải đi học đi qua chỗ bến Bồ Đề, vô tình trông thấy một người đánh cá bắt được một con ba ba nhỏ nhỏ xinh xinh đang chuẩn bị đem đi làm thịt. Bỗng dưng động lòng thương hại đối với con vật kia, Hải lập tức tiến tới ngăn lại rồi hỏi mua, nhưng người đánh cá nọ lại đòi tận những bốn quan tiền.
Hải cũng không hề kỳ kèo một câu nào, lập dức chạy vội về nhà để lấy tiền chuộc con ba ba kia. Khi mua được trở về thì Hải đem con ba ba nhỏ thả vào trong ngăn kéo của mình. Mỗi ngày theo thường lệ thì buổi sáng chàng sẽ nhịn đói đi học, rồi trưa thì trở về thổi cơm ăn. Mỗi bữa cơm chàng cũng không quên mở ngăn kéo rồi đem ba ba ra cùng mình ăn cơm.
Việc đó kéo dài được mấy ngày, nhưng vào một hôm nọ, khi Hải đi học trở về thì trông thấy trong nhà cơm canh đã bày sẵn trên bàn, cũng không rõ là ai đã dọn. Chàng rất ngạc nhiên, nhưng cũng vẫn điềm tĩnh ngồi vào bàn và ăn cơm ngon lành.
Ngày hôm sau, ngày hôm sau nữa mọi chuyện cũng vẫn diễn ra y như vậy. Hải ban đầu thì ngạc nhiên, nhưng sau đó lại rất tò mò, ngày nọ, sáng sớm chàng bèn giả đò là đi học, nhưng khi đi đến nửa đường thì chàng lại lộn ngược trở về nhà. Hải chính mắt trông thấy con ba ba bò ra từ trong ngăn kéo, sau đó thì hóa thân thành một người con gái vô cùng xinh đẹp. Từ chỗ nấp của mình, Hải vội vàng chạy vào để giấu xác ba ba vào trong hòm rồi khóa lại thật chặt.
Cô gái bởi không có xác ba ba để biến hình nên đành thẹn thùng mà bảo chàng rằng:
Thiếp đây vốn là con gái của vua Thủy, ngày nọ vì đi chơi mà không may bị chúng bắt lại, may mắn là có chàng cứu nên mới thoát được nạn. Vì vậy mà thiếp vẫn nấn ná nơi này để có thể trả ơn cho chàng.
Sau ngày đó hai người cùng nhau ăn ở như một đôi vợ chồng.
Ngày nọ cô gái bèn nói với Hải rằng:
Thiếp cũng đã vắng nhà rất lâu ngày rồi, bây giờ chắc cha mẹ thiếp đang rất sốt ruột trông ngóng thiếp trở về. Vậy nên thiếp rất muốn được trở lại thăm nhà, cũng nhân thể này mời chàng cùng xuống đó chơi ít ngày cho biết.
Nghe vợ nói, Hải liền đáp:
Nhưng ta đây là người trần thì làm sao có thể xuống đó được.
Chuyện này không hề gì cả. Chàng chỉ cần trả lại cho thiếp cái lốt ba ba kia rồi đi theo thiếp là được.
Tuy nhiên thì Hải vẫn còn nhiều thứ băn khoăn:
Hiện tại ta vẫn đang luyện văn bài đợi khoa thi tới. Nếu đi như vậy thì thực không tiện.
Chàng yên tâm, nhà thiếp có một người trạng nguyên họ Lương, nếu chàng xuống đó thì có thể đi hỏi nghĩa lí sách vở, như vậy rất thuận tiện.
Nghe vợ nói đến đây thì Hải liền nhận lời ngay lập tức. Sau đó cả hai bèn dắt nhau ra bờ sông gần đó. Cô gái nhanh nhẹn khoác lấy lốt ba ba rồi rẽ nước để Hải theo xuống cùng.
Khi hai người xuống đến nơi, vua Thủy nhìn thấy đứa con gái bao lâu trông ngóng đã trở về thì vô cùng vui mừng. Vua cũng tiếp đãi cho Hải – người ân nhân cứu giúp con gái mình rất hậu, còn cố lưu giữ chàng lại để tiệc tùng khoản đãi liên miên.
Sau mấy ngày ở lại nơi này, Hải cũng có cơ hội để gặp người Trạng nguyên họ Lương như lời kể của vợ, đó là khi ông đang ngồi để giảng kinh Dịch. Hải nghe bài giảng thì lòng lấy làm vui mừng vì cuối cùng đã gặp được một người thầy giỏi. Vua Thủy thấy vậy lập tức sai người dọn dẹp lại một ngôi lầu rất tĩnh mịch để cho Hải an tâm ôn luyện sử sách.
Nhưng bởi vì hải vui chơi ở nơi Thủy phủ suốt mấy năm liền nên quên luôn việc phải về nhà. Ngày nọ, vua Thủy phải giục chàng trở lại gấp để đi thi giành lấy trạng nguyên. Vua cũng không quên tống tiễn cho chàng rất nhiều vàng bạc châu báu. Chàng cũng rất bịn rịn khi buộc phải chia tay con gái vua Thủy để lên bờ.
Rời khỏi mặt nước, lên tới bờ thì Hải nghe tin rằng nhà vua đã xuống lệnh chỉ cho phép mở khoa thi. Vì không kịp để trở về quê nhà báo tin cho cha, chàng vội vàng tìm kiếm một căn nhà trọ cũ kĩ ở nơi kinh đô rồi bận rộn chuẩn bị lều chiếu để vào trường thi.
Hải thi và đậu tiến sĩ, sau đó lại tiếp tục thi luôn đình hậu và đỗ trạng nguyên. Tính thời gian từ khi chàng xuống Thủy phủ chơi cho đến tậ ngày chàng được vinh quy thì vừa trong mười một năm. Còn người lái buôn họ Giáp thì từ khi Hải xuống chơi Thủy phủ thì vẫn đinh ninh con nuôi của mình đã mất tích nên ngày đêm đều than khóc không ngừng. Nhưng một hôm nọ thì ông ta lại nghe tin ở trừng thi đã yết bảng lại có tên của con trai mình, còn là đứng đều bảng. Lòng ông ta vui mừng khôn siết, nên hối hả đốc thúc người trong nhà mua sắm gạo nếp, lợn bò rồi còn trang hoàng cả nhà cửa đón con trở về vinh quy bái tổ.
Lúc bấy giờ thì dân đinh ở hàng huyện đều bị buộc phải mang theo chiêng trống cờ quạt, rồi cơm đùm muối gói để đo đón ông quan Trạng, vì thế mà ai ai đều cũng một vẻ không bằng lòng.
Trong số những người đó thì có một người dân ở làng Dĩnh Kế vốn biết rõ rằng quan Trạng kia không phải quê gốc là ở làng mình huyện mình, vì vậy bèn vụng trộm nói với nhau rằng:
Tôi nói cho mà biết, cái anh nghè này ấy mà, vốn không biết quê cha đất tổ anh ta ở đâu, lại tự nhiên xuất hiện về nhà rồi làm con nhà họ Giáo, bây giờ còn bắt chúng ta phải phục dịch ngày đêm như vậy, đến là khổ sở mà!
Bấy giờ Trạng Hải đang nằm ở trong cáng, vô tình nghe lỏm được mấy câu phàn nàn của mấy người dân phu thì sinh ra mối hồ nghi. Nghĩ đi ngẫm lại thì chàng cũng thấy mình cùng cha mẹ mình từ khuôn mặt cho tới vóc người đều không có điểm gì tương tự nhau. Tuy vậy Hải vẫn không nỡ lòng nào đến truy vấn người cha lái buôn. Nhưng cũng bắt đầu từ khi đấy mà chàng liền để bụng dò la khắp nơi.
Mãi tận sau này mới co người tới mách nước cho Trạng biết rằng chàng vốn là con của một bà hàng nước nò đấy chứ không phải con đẻ của người lái buôn họ Giáp kia. Nhưng bởi vì ông ta hiếm hoi mới tìm cách để bắt trộm con người ta về làm con của mình. Vì vậy mà điều hồ nghi ở trong lòng chàng lại càng day dứt hơn.
Vào một ngày kia, Trạng Hải đem theo người hầu vô tình ghé đến làng Công Luận, trông thấy ở nơi ven đê có một bà lão tuổi cũng đã ngoài 70 mở hàng bán nước. Trạng liền sai người tới hỏi thăm chuyện của bà lão thì bà liền cho hay rằng trước kia mình có sinh ra một đứa con trai, nhưng vào năm lên bốn tuổi thì ra bờ sông chơi đã bị sẩy chân mà rơi xuống sông rồi, bây giờ bà chỉ một thân một mình sống không nơi nương tựa.
Khi được hỏi rằng có tìm được xác con không thì bà lão nghẹn lời nói rằng vì mình không có tiền để thuê người ta đi tìm tòi, cũng chẳng nghe được ai nói đã tìm thấy xác nên là coi như mất tích.
Cũng chưa biết được chuyện bà lão kia kể có thực hay không nhưng Trạng cũng kêu người bảo bà lão là:
Này cố, quan nhà tôi thấy cố đã già cả lắm rồi, chồng con lại không có, vì vậy muốn đem cố về làm phúc, liệu cố có bằng lòng theo quan tôi không?
Nghe vậy bà lão cũng sửng sốt rồi đáp:
Nếu như quan lớn đã có lòng thương hại kẻ già này thì còn nói gì được nữa.
Từ ngày đấy bà lão liền đi theo Hải đến chỗ chàng làm quan, được chu cấp cho cái ăn và cái mặc rất tử tế.
Nhưng một hôm khác, bà lão vô tình nhìn thấy Trạng thì đột nhiên khóc òa lên. Khi mọi người xung quanh xúm lại hỏi thăm thì bà lão nghẹn ngào nói rằng:
Trước kia đẻ con trai tôi nó có một cái nốt ruồi nơi chân phải. Bây giờ lại trông thấy ở chân bên phải của quan có một cái nốt ruồi, làm tôi nhớ con trai tôi, xin các ông hãy tha lỗi cho kẻ già này.
Đến tận lúc này thì Trạng mới tin rằng bà lão kia đích thực là mẹ ruột của mình. Sau đó hai mẹ con nhận nhau, ôm nhau cùng khóc ròng. Còn như người lái buôn họ Giáp kia vẫn biết lỗi là tự mình gây ra nên bèn đến nơi để thú thật với Trạng. Tuy nhiên Trạng xem xét đến những công lao của cha nuôi mình, ông ta đã cho chàng ăn học tử tế, có đó thì chàng mới có thể có được những vinh hoa phú quý ngày hôm nay. Vì vậy chàng vẫn tỏ một lòng hiếu kính và nguyện ý phụng dưỡng mẹ đẻ cũng như cha mẹ nuôi như nhau.
Ngày sau, có một lần vua sai Trạng làm chánh chủ khảo để đi chấm thi tại trường Sơn Nam. Bởi Trạng ra đầu bài khá hiểm hóc, nhiều học trò ứng thi đều không có được hy vọng để đỗ đạt, bọn họ liền bí mật cùng bàn bạc với nhau rồi ra ước định cùng nhau nổi dậy để phá trường thi.
Khi nghe được tin ấy thì Trạng cũng lấy làm lo sợ lắm, sau đó đành phải ra một đầu bài khác để cho những học trò này cùng thi lại. Nhưng chàng cũng cho người đi dò la và bắt được người học trò đã chủ xướng ra vụ việc này. Tuy chuyện này mới chỉ là âm mưu mà thôi, nhưng Trạng lại quyết khép y tội chết.
Cha mẹ của người học trò ấy kéo nhau đến kêu khóc nơi quan Trạng nói rằng nhà mình là độc đinh, duy chỉ có đứa con này nối dõi nên nguyện ý nộp một ngàn quan tiền để có thể chuộc mạng cho con. Tuy nhiên vì đang trong cơn giận dữ nên Trạng nhất quyết ra lệnh cho kẻ dưới trảm quyết người học trò kia không tha.
Ít ngày sau, con trai Trạng tên là Giáp Phong, vốn cơ thể không bệnh không tật gì lại đột nhiên lăn ra mà chết. Vì quá thương tiếc con nên Trạng sai người đi khắp nơi mời những phù thủy đến phủ để đánh đồng thiếp để mình có thể xuống nơi âm phủ tìm lại con trai, tuy nhiên lại chẳng có ông thầy nào có thể làm cho Trạng vừa lòng cả.
Vào một ngày kia xuất hiện một đạo nhân ăn mặc rách rưới, đi giày rách tới tận cửa để xin gặp. Nhưng Trạng vốn tính ghét đồng cốt quàng xiên, vì vậy mà không chịu ra tiếp. Nhưng vì người đạo nhân này cứ đồi gặp mặt Trạng cho bằng được mới chịu đi nên Trạng đành tiếp.
Khi hai người vừa gặp nhau thì đạo nhân bèn trừng mắt mà hỏi rằng:
Ngươi muốn gặp lại con không?
Trạng lập tức mất đi vẻ trịnh trượng mà đáp rằng:
Có.
Vậy ngồi im rồi nhắm mắt lại thì ta sẽ đưa ngươi tới nơi.
Lập tức đạo nhân kia kiền thư phù, sau đó đọc thần chú. Rồi Giáp Hải lại bỗng nhiên thấy tối sầm hết cả, sau đó lại thấy người kia dẫn mình đi.
Trạng cứ theo người kia đi mãi, đi mãi, mặc dù cảm thấy rất chồn chân nhưng chàng vẫn không dám ngừng lại. Tận đến khi bọn họ đi tới một nơi có nhà ngói tường dắc, còn có những lầu son gác tía, và người hầu kẻ hạ thì đi lại tấp nập, lúc ấy đạo nhân kia mới đi chậm lại, dẫn theo Trạng đi vào trong một dãy hành lang.
Đi đến đây thì Trạng đã trông thấy Giáp Phong con trai mình đang nhàn nhã ngồi chơi cờ với một ông quan khác, họ ngồi trong lầu bát giác ở xa tít phía bên trong. Nhìn thấy thế, Trạng bèn một hai ngỏ lời xin phép để được vào gặp con trai mình ngau, nhưng là mấy lần liền lính vào trong bẩm báo thì Giáp Phong vẫn một mực làm ngơ mà không thèm trả lời.
Đợi tận đến khi ván cờ đã tàn, ông quan kia mới hỏi Giáp Phong là:
Anh không có quen thuộc người kia ư?
Có – Giáp Phong bèn đáp – Khi trước quả thực tôi có trọ ở nhà ông ta hai mươi năm, nhưng bởi vì ông ta lại giết oan một người học trò, vì thế tôi không muốn ở nữa.
Đến khi tỉnh lại thì Trạng biết ngay đó là báo oán của mình, chàng liền sai người gọi cha mẹ người học trò đã bị mình chém tới rồi cho họ tiền bạc để về sửa lễ để làm ma chay ch