Truyện cổ tích Việt Nam
CON CÓC LIẾM NƯỚC MƯA
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ có hai người chơi rất thân với nhau, một người tên là Ân, người kia tên là Nghĩa, họ đều làm trong nghề sơn tràng cả. Ngày qua ngày họ đều vào trong tận rừng sâu để tìm cây rồi đốn gẫy xuống, sau đó thì phát hết cành lá, sau đó buộc vào con trâu để kéo ra ngoài bán lại cho những tên lái gỗ buôn. Họ cùng nhau lên rừng, cùng nhau đốn gỗ, phát lá, họ cũng sống gần nhau rất vui vẻ và hòa thuận. Ít lâu sau thì người tên Ân cũng quyết định lấy vợ. Ân lấy được một người vợ rất xinh đẹp. Cả hai vợ chồng chung sống với nhau vô cùng tương đắc.
Tuy nhiên, mặt hồ vốn đang là phẳng lặng ấy lại bỗng nhiên nổi lên những cơm sóng gió bất thường. Khi nhìn thấy hạnh phúc của Ân, không hiểu sao tâm hồn của Nghĩa lại dần trở thành không giống như khi trước nữa. Hắn đột nhiên cảm thất ghen tỵ với bạn của mình, rồi lại oán thán về số kiếp của bản thân. Và hắn cũng thường hay nghĩ thầm trong bụng rằng: “Mình đây tài trai hơn hẳn tên đó về mọi mặt, vậy tại sao mà cuộc đời của nó được mười mà mình không được lấy một?”. Cứ thế, trong lòng Nghĩa lại càng thêm ghen ghét, nỗi ấm ức cứ chất chứa cao lên theo thời gian.
Vào một ngày kia, cuối cùng thì đã đến thời gian làm việc ở trong rừng, Ân và Nghĩa lại tiếp tục cùng nhau mang theo búa rừu vào trong rừng để tìm gỗ. Lợi dụng lòng tin của Ân, Nghĩa tìm cách lừa bạn đi qua những ba ngọn núi đều cao chót vót, còn có sáu thác nước chảy xiết, còn lừa bạn rằng hắn nghe được người ta mách rằng ở nơi đó có loài cây vàng, còn biết tâm của nó chừng khoảng ba người ôm mới hết. Nếu như có thể đốn được cây gỗ như thế thì bọn họ có thể thoải mái bắt chẹt mấy tên lái buôn gỗ kia. Bởi vì Ân luôn luôn tin tưởng bạn là thực bụng với mình, vì vậy không ngần ngại theo Nghĩa dấn thân vào sâu nơi rừng thẳm. Nhưng trong khi Ân bận rộn ngửa mặt lên để tìm cho bằng được cây gỗ quý, bất thình lình ngay sau đó, Nghĩa bất ngờ ném ra một sợ dây thừng, dùng hết sức mình để mà xiết hai tay của Ân chặt lại. Dù cho Ân có cố sức giày giũa thế nào đi chăng nữa thì cũng không thể nào thoát thân, bởi vì sức của Nghĩa khỏe như vâm vậy, công thêm việc đã có kế hoạch và chuẩn bị sẵn sàng từ trước, vì thế chỉ sau một lúc giằng co, Ân cuối cùng cũng bị Nghĩa trói gô lại. Nhìn người bạn mình vẫn luôn tin tưởng, Ân liền khẩn cầu:
– Xin anh, xin anh hãy tha cho tôi đi! Nếu anh có cần dùng tiền thì tôi hứa sẽ chạy chữa cho đủ mà.
Trước lời khẩn cầu tha thiết của Ân, Nghĩa chỉ lạnh lùng đáp trả:
– Tao đây cũng nói cho mày biết sự thật, cái tao muốn là vợ mày, nêu mày mà không chết thì làm sao mà tao có thể lấy nó được. Bởi vậy nên tao buộc phải giết chết mày. Bây giờ mày có gì muốn trăn trối thì nói cho tao.
Trước lúc đó thì Ân còn van lạy Nghĩa, mong hắn hồi tâm chuyển ý, nhưng là khi nhìn thấy trong mắt kẻ thù đều là quyết tâm thì Ân biết, dù cho anh có nói gì đi chăng nữa thì cũng không thể nào mà lay chuyển được cái con người mang lòng lang dạ sói kia. Vì thế mà anh nghiến răng lại, chửi rủa, mắng nhiếc thậm tệ để phát tiết sự hận thù của mình.
Nghĩa không hề vì sự tức giận của Ân mà bận lòng, hắn giơ cao cây búa trong tay, nói với Ân lời cuối:
– Mày vẫn cứ nên yên lòng rồi chết đi. Tao chắc chắn sẽ làm lễ cúng hằng năm cho mày chu tất.
Nghĩa vốn định sẽ giáng lưỡi búa ấy vào đầu Ân, nhưng là khi nhìn vào đôi mắt chất đầy đau thương cùng nguyền rủa đang giương to lên của Ân, đôi mắt quyết tiệt của hắn có chút sợ hãi, đôi mắt của Ân khiến hắn rợn hết cả người. Thấy vậy hắn thầm nghĩ: “Dù mình không giết nó thì ở đây nó tất phải chết. Dù cho không có rơi vào đàm hùm hang cọp thì hắn cũng sẽ chết vì đói khát. Chắc hẳn chả có ma nào bén mảng đến mấy cái nơi núi thẳm rừng sâu này đâu”. Nghĩ thế nên hắn cũng ném búa đi, rồi một lần nữa đem Ân đến một thân cây trói kiểu giật cánh khỉ để cho lũ cọp lũ beo hay đi qua nơi này kết liễu mạng sống của Ân hộ mình. Làm xong thì Nghĩa liền trở lại làng, hắn còn nói với vợ của Ân rằng chồng nàng đang bận đi vào trong rừng sâu để kiếm gỗ, chắc phải vài ba bữa nữa mới trở về được.
Hai ngày sau hôm đó, Nghĩa lén lút trở lại nơi trói Ân ở trong rừng để xem thử anh đã chết chưa. Nhìn từ phía xa thì hắn trông thấy Ân còn cựa quậy được, đều Ân cũng ngẩng cao lên trời. Hắn vô cùng ngạc nhiên, cũng không biết Ân là đang làm trò gì, chỉ tự đứng đó lẩm bẩm: “Không biết nó muốn làm cái gì mà ngẩng đều cao như thế nữa?”. Cũng ngay lúc đó thì hắn nhìn thấy Ân thè lưỡi ra ngoài, rồi lại rụt vào, cứ như thế nhiều lần. Hắn cũng nhận ra, hóa ra là vì quá khát nên Ân mới phải làm thế để mong có thể hứng được vài giọt sương mai đọng trên tán lá cây đang rơi xuống, với hy vọng có thể tiếp tục duy trì cái sự sống này.
Nghĩa lại trở về nhà. Hai ngày nữa lại qua đi, hắn lại trở lại nơi trói Ân một lần nữa. Lần này thì hắn rõ ràng nhìn thấy được Ân đã chết rồi, đầu cũng đã gục hẳn xuống phía ngực. Và hắn rất an tâm mà ra về. Sau đó hắn phao tin cho dân làng biết rằng Ân đột nhiên bỏ mình và bỏ cả quê hương để mà đến phương xa làm ăn, cũng không lo lắng hay tưởng gì vợ con hay làng nước của mình nữa.
Ngày lại qua ngày, Nghĩa cứ thỉnh thoảng lại lai vãng qua chỗ nhà của vợ Ân, hắn làm đủ bộ dạng thăm hỏi tin tức của chồng nàng. Khi thấy nàng chịu túng thiếu thì hắn giả bộ như mình rất hào hiệp mà giúp đỡ nàng, khi thì là năm quan, lúc thì lại ba quan mà không hề tiếc rẻ. Trong khi nhà vắng bóng của chồng, lại được người bạn thân của chồng mình săn sóc tận tình thì vợ Ân vô cùng cảm động. Quả thật là nàng chưa từng gặp người nào lại tốt như thế cả. Cho đến khi truyền đến cái tin Ân đã bị lũ cướp bóc ở nơi biên giới sát hại ở xó rừng, nàng biết và nàng cũng cảm thấy mình bây giờ không cách nào mà lìa xa Nghĩa được.
Vậy là sau khi nàng đã đoạn tang của chồng, nàng và Nghĩa lấy nhau, cũng đưa nhau trở lại quê hương nơi xứ đẻ của Nghĩa tận một tỉnh xa ở ngoài Bắc.
Cả hai ăn ở cùng nhau cũng đã chín năm thấm thoát qua đi. Người chồng vẫn chưa bao giờ thổ lộ với vợ chuyện gì, mà người vợ cũng chưa từng ngờ vực gì về người chồng mới của mình. Nghĩa của hiện tại đã không còn phải vất vả vào nơi rừng sâu nước thẳm để đốn gỗ, hắn bây giờ đã trở thành một người lái buôn bè rất giàu có, hắn có nhà lim, có sân gạch, có kẻ hầu và người hạ, có được một cuộc sống vô cùng dễ chịu.
Vào một buổi chiều của ngày hè, khi trời đang lất phất cơn mưa phùn, hai người cùng nhau ngồi ăn cơm ở dưới mái hiên. Đột nhiên Nghĩa lại nhìn thấy ngoài sân kia có một con cóc, nó đang chống chân để bò lại phía dưới gốc cau, sau đó nó tự nhiên đứng dựng người lên, rồi thè lưỡi của mình ra để hứng lấy vài giọt mưa đang bay qua đầu. Nghĩa sực nhớ về cái lưỡi ngày ấy của Ân, cái ngày xa xối ấy khi mà Ân thè lưỡi ra để cố hứng lấy mấy giọt sương mai, cảnh ấy cũng hệt như con cóc kia bây giờ vậy. Nghĩ vậy hắn đột nhiên bật cười thành tiếng vô cùng ghê rợn. Thấy chồng như vậy, người vợ có chút sửng sốt mà buông đũa, nàng nhìn hắn đầy tò mò mà hỏi:
– Anh đang nghĩ cái gì mà lại cười vậy?
Hắn nghe vợ hỏi thì ngập ngừng trả lời:
– Tôi thấy con cóc kia liếm nước mưa thì lại sực nhớ lại ngày ấy…
Hắn giật mình dừng lại, biết mình trót lỡ lời thì lập tức dừng lại câu chuyện. Người vợ thấy vậy lại càng tò mò hơn, cứ hỏi gặng mãi. Dù cho hắn tìm cách giấu quanh giấu co nhưng cũng thực hết sức vụng về. Người vợ lại nghi ngờ rằng chồng mình vụng trộm tình duyên bên ngoài nên cứ hỏi dồn mãi. Cuối cùng thì từ câu chuyện lại trở thành cãi vã nhau căng thẳng.
Thấy vợ giận quá, Nghĩa thầm nghĩ mà bụng bảo dạ rằng: “Vợ cùng mình ăn ở với nhau đã từng ấy năm rồi, từ khi còn nghèo khó cho tới tận lúc giàu có, nếu vậy thì nếu có biết được câu chuyện ngày ấy thì chắc hẳn không phàn nàn mình điều gì, biết đâu lại còn thương yêu mình hơn trước khi biết mình phải chịu biết bao cực khổ, vượt qua bao khó khăn để mà có được hạnh phúc như ngày nay”. Chắc mẩm như vậy nên Nghĩa dặn vợ phải giữ thật kín câu chuyện mà mình sắp kể, sau đó thì hắn không ngần ngại kể toạc mọi chuyện xưa ra, mọi bí ẩn từ thuở trước đều được phơi bày.
Người vợ im lặng ngồi nghe chồng nói, nàng càng ngày càng trầm ngâm, càng ngày càng yên tĩnh hơn. Người trước mắt nàng nhìn thấy bây giờ không còn là con người nữa, hắn không phải loài người. Những sự âu yếm, tất cả những sự tử tế trước đây của giống sài lang hổ báo này toàn là dối trá mà thôi. Nàng vô cùng thương xót cho người chồng vốn yêu thương mình trước đây, chỉ vì một kẻ bất lương, một kẻ phản bạn mà phải chịu chết oan chết uổng, bỏ xác nơi rừng hoang cô quạnh. Tuy bên ngoài nàng không hề tỏ ra thái độ nào ngay lúc ấy, nhưng là trong lòng của nàng lúc này thì là cả một đống lửa đang cháy hừng hực, càng ngày càng bốc lên cao ngút.
Ngày nọ khi đến ngày giỗ của Ân – cái ngày mà Nghĩa vẫn chưa từng quên, hắn luôn bày lễ rất đầy đủ để cúng cho Ân hằng năm theo đúng lời hứa năm xưa của mình – nàng cũng đi ra chợ để mua đủ thứ rượu thịt về làm lễ cúng cho vong hồn của người bạc mệnh kia. Lễ cúng hoàn tất, cả hai người cùng ngồi lại ăn với nhau. Nàng tận tình chuốc rượu cho Nghĩa, để cho hắn uống thật say. Khi kẻ gian độc ác kia đã say gục đầu xuống chiếu thì nàng liền đi lấy dây thừng, trói hắn thật chặt vào trên giường. Sau đó làng xuống bếp lấy con dao bầu mà nàng đã mài sẵn từ trước, nàng không ngần ngại rạch bụng kẻ xấu xa kia, sau đó moi lấy tim của hắn, đặt vào một cái đã rồi nàng đem nó đặt lên phía trên bàn thờ rồi cúng chồng mình thêm một lần nữa.
Sau đó thì nàng một mình đến nơi công đường để tự thú.