Tràng giang
1. Huy Cận (1919_ – 2005) tên đầy đủ là Cù Huy Cận, sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo, gốc làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là xã Đức Ân, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận là một trong những đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước, từ đó tích cực tham gia các phong trào văn nghệ phục vụ cách mạng và giữ các chức vụ quan trọng trong Chính phủ và trong Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Năm 2001, Huy Cận được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới.
Xem thêm:
2. Thơ Huy Cận trước Cách mạng nổi tiếng với tập Lửa thiêng, tập thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng, đó là một nỗi buồn mênh mang, da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, tạo cảm giác cô đơn rợn ngợp. Trước vũ trụ bao la, con người thật nhỏ bé và cô đơn. Đó là tâm trạng chung của các nhà thơ mới. Tâm trạng của thế hệ thanh niên rơi vào tình trạng không tìm ra ý nghĩa cuộc đời, trong họ luôn chứa chất tâm sự thời cuộc. Sau Cách mạng, thơ Huy Cận vui hơn, hoà cùng niềm vui chung của toàn dân tộc.
3. Bài thơ Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng. Bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp thơ ca cổ điển và tâm sự thời đại.
– Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh thiên nhiên trời rộng, sông dài, sơn thuỷ hữu tình nhưng vắng lặng đìu hiu. Cảnh vật gợi nỗi buồn, sự cô đơn, con người nhỏ bé trước thiên nhiên bao la. Bài thơ sử dụng nhiều yếu tố có tính chất tương phản.
– Cảnh vật gợi nhiều tâm trạng. Tâm trạng nhân vật trữ tình là tâm trạng buồn, cô đơn, nhớ quê hương. Đứng giữa quê hương vẫn khắc khoải nỗi nhớ quê hương là tâm trạng chung của tất cả các nhà thơ mới.
– Cô đơn và nhỏ bé trước cuộc đời nên luôn khát khao được giao cảm với đời. Bài thơ còn gợi tả tâm sự ấy.
4.Đọc hiểu
4.1. Bài thơ có bốn khổ, mỗi khổ như một bài thơ tứ tuyệt Đường thi, khổ nào cũng mênh mông sóng nước và dờn dợn một nỗi buồn sầu. Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn, cô đơn, trống vắng. Đó là nỗi buồn của cả một thế hệ các nhà thơ mới trước Cách mạng.
4.2. Cả bốn câu thơ ở khổ 1 đều tả cảnh nhưng mỗi cảnh lại mang một sắc thái khác nhau. Ở hai câu đầu, cảnh vật được gợi tả khá quen thuộc, bình dị, tự nó không có gì đáng buồn: sóng nước, thuyền trôi… “Sóng gợn” là do gió, nhưng khi thêm cụm từ buồn điệp điệp thì sóng ấy đâu còn là hình ảnh thiên nhiên mà là sóng ở trong lòng người. Con sóng có thật của Tràng giang vỗ vào nỗi hiu hắt, cô đơn trở thành nỗi buồn “điệp điệp”. Một nỗi buồn âm thầm, da diết khôn nguôi cứ trải ra liên tiếp theo những lớp sóng nối đuôi nhau không dứt trên dòng tràng giang. Cụm từ nước song song cũng là một cấu tứ lạ đăng đối với buồn điệp điệp ở câu trên như để nhấn thêm nỗi buồn. Hình ảnh thơ gợi lên nỗi niềm của cả một thế hệ với biết bao sầu thương, ảo não. Sang đến hai câu sau tình buồn bắt gặp cảnh buồn với cái “sầu trăm ngả” của những chuyển động ngược chiều, ngược hướng “thuyền về, nước lại” và hình ảnh nổi trôi phiêu dạt của một cành củi khô lạc giữa mấy dòng nước. Hình ảnh cành củi ấy gợi lên những ám ảnh về thân phận nhỏ nhoi, phiêu dạt, lạc loài. Nhịp câu thơ trúc trắc (1 3 1 2) phá cách thơ thất ngôn cổ điển cùng phép đảo ngữ, tương phản cũng góp phần nhấn mạnh tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Sang đến khổ 2, tầm nhìn rộng hơn, một không gian bao la, cái nhỏ bé vẫn tương phản với cái mênh mông vô cùng. Bức tranh sông nước có thêm vài nét chấm phá với những thi liệu quen thuộc của bài thơ cổ: cồn cát, gió đìu hiu, thuyền bến cô liêu… Hai từ láy lơ thơ và đìu hiu được dùng rất nhiều rất đắt vừa có giá trị tạo hình vừa giàu khả năng biểu đạt tâm trạng, lại gợi màu sắc cổ kính, gợi hơi hướng cổ thi. Âm thanh tiếng chợ chiều đã vãn nơi làng xa vẳng lại càng gợi buồn. Nó mơ hồ xao xác quá và gợi không khí tàn tạ, vắng vẻ. Có lẽ đây là âm thanh vọng lên từ tâm tưởng, từ niềm khát khao của nhà thơ. Câu thơ thứ 3, thứ 4 mở rộng không gian miêu tả ra nhiều chiều với hình ảnh của nắng xuống, trời lên, sông dài, bến vắng cô liêu càng làm cho cảnh thêm buồn, tâm trạng thêm cô đơn.
Khổ thơ thứ ba, vẻ đìu hiu hoang vắng của cảnh vật được tô đậm hơn đến mức dường như không còn dấu vết của sự sống khiến nỗi buồn được đẩy lên đến tột cùng với điệp từ không, giọng thơ như hụt hẫng. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người, “không một chuyến đò”, không có lấy một cây cầu nối liền đôi bờ để có thể tạo nên sự gắn kết con người với nhau.
Khổ thơ cuối miêu tả cảnh hoàng hôn và thể hiện tâm trạng buồn nhớ quê hương của con người một kiểu tâm trạng và thi hứng rất điển hình của thi ca cổ điển. Cảnh bầu trời cao rộng êm ả lúc chiều tà được chấm phá theo bút pháp Đường thi với hai hình ảnh “đám mây” và “cánh chim” những thi liệu quen thuộc trong thơ ca trung đại phương Đông. Hình ảnh tương phản giữa cánh chim (cánh chim đã nhỏ lại nghiêng nên càng nhỏ nhoi hơn) và bầu trời gợi cảm giác cô đơn, nhỏ bé và rợn ngợp. Không gian ấy là cái nền để nhân vật trữ tình thể hiện nỗi nhớ quê hương. Nỗi nhớ mênh mang vời vợi, “dợn dợn” trải dài như những con sóng nối đuôi nhau chạy đến vô tận, vô cùng.
Về câu thơ đề từ (Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài): Đề từ tuy nằm ngoài văn bản tác phẩm, nhưng lại tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Câu thơ đề từ của bài thơ này là một ví dụ tiêu biểu. Lời đề từ ngắn nhưng đã thể hiện được một phần quan trọng hồn cốt của tác phẩm, nói cụ thể hơn, đây chính là nỗi buồn (bâng khuâng là có những cảm xúc ngỡ ngàng, luyến tiếc, nhớ thương đan xen nhau) trước cảnh vũ trụ bao la, bát ngát (trời rộng, sông dài).
4.3. Về hình thức tổ chức câu thơ và việc sử dụng lời thơ trong các cặp câu:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Cả hai cặp câu thơ trên, về hình thức tổ chức câu thơ cũng như sử dụng lời thơ, đều có sự vận dụng và phát huy một cách sáng tạo những yếu tố cổ điển Đường thi để thể hiện tâm tư của cái tôi thơ mới.
Cách tổ chức câu thơ tuân theo phép đối ngẫu phổ biến của thơ Đường. Chúng đều là những cặp câu đối nhau. Tuy nhiên, dạng thức mẫu mực của đối, theo quan niệm cổ điển, là phải đối nhau triệt để (đối câu, ý, chữ, âm…). Ở đây, Huy Cận chỉ mượn nguyên tắc tương xứng của đối, chứ không đẩy lên thành đối chọi. Vì thế, câu thơ tạo ra vẻ cân xứng trang trọng, mở ra được các chiều kích vô biên của không gian, mà không gây cảm giác gò bó, nệ cổ. Nghĩa là, một nét thi pháp cổ điển Đường thi đã được cách tân để phù hợp với tâm lí hiện đại.
Cách sử dụng lời thơ cũng vậy. Có những ngôn từ được dùng theo lối thơ Đường, cụ thể là học theo lối dùng từ láy, theo lối song song của Đỗ Phủ trong bài Đăng cao ở cặp câu:
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
Có lối dùng những cụm từ theo cấu trúc thành ngữ bốn tiếng, cả về âm thanh, cả về ý nghĩa: sóng gợn tràng giang, con thuyền xuôi mái, nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng… Có lối tạo từ theo phong cách cổ điển: bến cô liêu. Có lối “lạ hoá” ngôn từ: sâu chót vót. Chót vót vốn là một từ được dùng để diễn tả chiều cao, ở đây được dùng để biểu đạt chiều sâu. Trước Huy Cận chưa thấy dùng như thế. Điều này có vẻ vô lí. Nhưng cái lí của việc sáng tạo này là ở chỗ: tác giả không muốn dừng tầm nhìn ở vòm trời, đỉnh trời mà xuyên sâu vào đáy đáy vũ trụ. Cái tôi ấy càng thấy bơ vơ hơn trước cái vô biên đến rợn ngợp như thế. Vì vậy, chiều cao đã chuyển hoá thành chiều sâu một cách thật tự nhiên.
4.4. Những hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng” và “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” được dùng thật sáng tạo, vừa gợi hình vừa gợi cảm.
Trước hết, đó là những hình ảnh nghiêng về tả thực, bằng những chi tiết sống động. Chúng giúp cho thi sĩ tái hiện diện mạo chân thực của sông nước tràng giang cũng như cảnh không trung lúc hoàng hôn. Thủ pháp bao trùm đều là tương phản: hữu hạn – vô hạn, nhỏ nhoi – lớn lao, hữu hình – vô hình. Nhờ đó, người đọc hình dung được cảnh tượng một tạo vật thiên nhiên thật sinh động và sắc nét.
Cả hai hình ảnh nghệ thuật đều gợi ra thân phận bơ vơ, chìm nổi, vô định của những cá thể nhỏ nhoi giữa tạo vật thiên nhiên mênh mông hiu quạnh. Đối diện với những cá thể ấy, con người không khỏi chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình. Nó cũng là một cá thể bơ vơ, trôi dạt trong cái vô cùng, vô tận của không gian, cái vô thủy vô chung của thời gian.
4.5. Tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ là nỗi buồn non nước thể hiện lòng yêu quê hương đất nước thầm kín của một lớp thanh niên trong chế độ cũ. Cảm hứng xuyên suốt Tràng giang là nỗi buồn triền miên vô tận, là nỗi sầu nhân thế. Xuân Diệu khẳng định: “Tràng Giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước … dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc sau này”.
4.6. Huy Cận cũng như phần đông các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng khá rõ của thơ tượng trưng phương Tây thế kỉ XX. Tuy vậy, Huy Cận còn là người rất thích thơ Đường và trân trọng vốn thi ca dân tộc. Trong sáng tác của ông, người ta dễ dàng cảm nhận được dấu ấn Đường thi, cũng như thơ tượng trưng Pháp. Có điều đáng chú ý là chúng đã được Việt hoá một cách nhuần nhị.
*LIÊN HỆ
Tràng giang là bài thơ được sông Hồng gợi tứ. Trước cách mạng tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm, vẽ để ngắm cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ cũng không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương. Chúng tôi lúc đó có một nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên. Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn. Nhìn dòng sông lớn gợn những lớp sóng tôi cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra như những lớp sóng:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn là hai khái niệm gần gũi nhưng rồi không phải bao giờ cũng gắn bó. Thuyền gợi lên một cái gì nổi nênh như kiếp người trong cuộc đời cũ. Nhất là ở đây nỗi buồn chia li, xa cách đang đón đợi. Tôi chọn lọc trong nhiều khả năng biểu hiện hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng” không phải là một thân gỗ xuôi dòng, một đám bèo xanh trôi nổi mà là một cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sông.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Khung cảnh của buổi chiều trên sông nước, làng xóm đôi bờ vắng lặng. Trong câu đầu của khổ thơ tôi có đọc được chữ đìu hiu của Chinh phụ ngâm:
Non kì quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Cảnh vật vắng vẻ. Đâu đây vẳng lại đôi tiếng lao xao của buổi chợ chiều. Thật không gì vui bằng lúc chợ đông và buồn bằng khi chợ chiều tan tác, không có tiếng người thì cảnh vật hoang vắng và xa lạ. Đôi chút âm thanh của cuộc sống con người không làm bớt đi sự vắng lặng nhưng vẫn tạo được ít nhiều vẻ của cuộc sống. Thiên nhiên tạo vật trong buổi chiều tà trên sông nước cùng lạ lùng. Từng vạt nắng từ trên cao rọi xuống tạo nên những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ sâu chứ không dùng chữ cao. Nếu là cao chót vót thì quá bình thường. Không gian được mở ra hai chiều, chiều cao và bề rộng tạo nên một không gian vũ trụ rộng lớn và cũng là những nỗi buồn vô tận. Câu thơ đề từ của bài Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài cũng được láy lại trong ý thơ “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Trong không gian buồn, xa vắng đó ai cũng muốn tìm đến những dấu vết gần gũi của sự sống của cuộc đời:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Những dấu hiệu gần gũi nhất của cuộc sống đều không có. Không một chiếc cầu nhỏ, một chuyến đò ngang để cuộc sống đi về trong thân tình gần gũi. Cả bốn câu thơ đều buồn, mỗi câu mang một nỗi buồn riêng. Cảnh vật có đổi thay nhưng cũng một dáng vẻ, tất cả đều trôi nổi, mông lung, vô định. Không có những dấu vết của con người. Nhắc đến từng hình ảnh lại thấy tha thiết nhớ cuộc sống của con người. Thiên nhiên tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ lạ lùng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vờn con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Câu thơ đầu có học được chữ đùn trong bài dịch thơ Đỗ Phủ.
Lưng trời sóng gợn, lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao, ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp. Cánh chim bay liệng tuy gợn lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng nhỏ bé, mông lung quá. Và nỗi buồn đến đây càng thêm da diết trong thương nhớ. Nó không chỉ đóng khung trong cảnh sông nước ở trước mắt mà mở ra đến những chân trời của miền quê xa. Hai chữ dợn dợn của tôi thường bị đọc in thành dờn dợn, như thế chẳng có ý nghĩa gì. Trong bài thơ Tràng giang có nhiều điệp ngữ như điệp điệp, song song, dợn dợn. Mỗi từ điệp như thế đều có ý nghĩa riêng về nội dung cũng như nghệ thuật. Bài thơ kết thúc bằng nỗi nhớ quê hương da diết. Tôi nói khác ý thơ của Thôi Hiệu:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Vì lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường.
Tôi thường nói vui rằng cảnh trên sông nước có khói sóng làm cho Thôi Hiệu buồn, nhớ quê; còn tôi thì không có khói sóng cũng da diết nhớ quê hương. Bài Tràng giang đã kết hợp được thơ ca truyền thống, những nét cổ điển của thơ Đường, với những nét hiện đại. Những hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, “củi một cành khô”, “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” mang tính chân thực của đời thường, không ước lệ. Và cũng có những hình ảnh mang vẻ đẹp tượng trưng. Tình yêu quê hương trong bài Tràng giang gợi lên và mở ra một tình yêu lớn lao hơn mỗi miền quê, mỗi cảnh vật. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước.