Những thành quả và ý nghĩa của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 ?

Phân tích thành quả và những hạn chế của miền Bắc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội từ năm 1954 đến năm 1975 không thể tách rời bối cảnh lịch sử của đất nước và quốc tế.

1. Thành quả và những hạn chế của miền Bắc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội từ năm 1954 đến năm 1975

  • Đã xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Đến năm 1975, trong khu vực sản xuất vật chất, 99,7% tài sản cố định đã thuộc về kinh tế xã hội chủ nghĩa, tăng 5,1 lần so với năm 1955. Trong công nghiệp, đã có những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như: điện, than, cơ khí, hoá chất, luyện kim… Một số ngành công nghiệp nhẹ đã được xây dựng.
  • Trong nông nghiệp, nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng, bảo đảm tưới, tiêu cho hàng chục vạn héc-ta đất canh tác. Quá nửa số hợp tác xã nông nghiệp đã được trang bị máy móc nhỏ. Đã có những cố gắng bước đầu trong việc áp dụng một số thành tựu mới về khoa học – kỹ thuật. Những cố gắng nói trên đã tạo ra cho nông nghiệp những chuyển biến lớn: tăng năng suất và tăng vụ, đảm bảo lương thực, thực phẩm trong chiến tranh.
  •  Cơ cấu xã hội – giai cấp đã có sự thay đổi lớn. Các giai cấp bóc lột đã bị xoá bỏ. Giai cấp công nhân đã trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Giai cấp nông dân đã trở thành giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tập thể tư liệu sản xuất chủ yếu – ruộng đất.
  • Khồi liên minh công nông được củng cố trên cơ sở mới. Tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa được tăng cường. Xã hội miền Bắc đã trở thành xã hội của những người lao động bình đẳng. Các thành phần dân tộc chung sống trên tinh thần đoàn kết, hoà hợp dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội ngày càng được củng cố.
  • Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế phát triển nhanh Tính đến đầu năm 1975, cứ 3 người, có một người đi học. Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý có trình độ trên đại học, đại học và trung học chuyên nghiệp hơn 43 vạn người, tăng 19 lần so với năm 1960. Mạng lưới y tế được mở rộng. Số bác sĩ, y sĩ tăng 13,4 lần so với năm 1960. Hoạt động văn hoá, nghệ thuật cũng phát triển trên nhiều mặt với nội dung phong phú, góp phần xây dựng cuộc sống mới và con người mới trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
  • Trong những năm chiến tranh, sản xuất vẫn được duy trì, có mặt tiếp tục phát triển. Những nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân được bảo đảm. Đói rét, dịch bệnh không xảy ra, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững. Tuy mức sống còn thấp và có nhiều khó khăn, nhưng mọi người đều vững lòng tin tưởng và tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Và còn thực hiện xuất sắc vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, đóng góp sức người sức của cùng nhân dân miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.
  • Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) đã đánh giá: “Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu nước và giữ nước với toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước, xứng đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội”.
  • Đặt vào hoàn cảnh lịch sử lúc đó, thì những thành tựu mà nhân dân ta đã đạt được là rất lớn.
    Song, nền kinh tế miền Bắc cũng bộc lộ những khó khăn, yếu kém. Sau hơn 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế miền Bắc còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn thấp kém, 80% lực lượng lao động xã hội vẫn là lao động thủ công. Năng suất lao động rất thấp. Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được nhu cầu cơ bản của đời sống nhân dân và nhu cầu tích luỹ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
  • Tình hình đó cộng với nhịp độ dân số tăng nhanh (gấp đôi so với 20 năm trước) làm cho nền kinh tế gặp khó khăn gay gắt.
  • Nguyên nhân khó khăn: xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên chủ nghĩa xã hội, lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh ác liệt, quy mô lớn kéo dài.
  • Đảng ta đã phạm những thiếu sót, khuyết điểm bắt nguồn từ nhận thức còn giản đơn, nóng vội, duy ý chí, chịu ảnh hưởng của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước khác, không tính toán đầy đủ đến hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của nước ta, muốn đi nhanh lên chủ nghĩa xã hội, muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế khác trong khi sản xuất còn thấp kém, ngăn chặn sự phát triển kinh tế hàng hoá.
  • Những thiếu sót, khuyết điểm trên còn bắt nguồn sâu xa từ những thiếu sót chung của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới thời chiến tranh lạnh với mô hình nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, phi thị trường.
READ:  Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Tuyên ngôn độc lập vào thời gian nào? Ở đâu?

2. Ý nghĩa của thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1954- 1975

  • Khẳng định chủ trương đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội ngay sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng là phù hợp với yêu cầu phát triển của cách mạng miền Bắc và yêu cầu phát triển chung của cách mạng cả nước. Điều đó đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong việc đề ra và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
  • Với tiềm lực của mình, miền Bắc đã xứng đáng là căn cứ địa của cách mạng cả nước, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam.