Soạn bài Vội vàng của – Xuân Diệu

SOẠN BÀI

VỘI VÀNG – XUÂN DIỆU

I. GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI.

Câu 1. Cả bài thơ là một dòng cảm xúc hối hả, tuôn trào nhưng vẫn tuân theo một bố cục khá rõ ràng, chặt chẽ. Bài thơ có thể chia làm bốn đoạn:

– 4 câu đầu: Khát khao lưu giữ hương sắc mùa xuân.
– Câu 5 – 13: Vui thích, say mê trước cảnh sắc mùa xuân.
– Câu 14 – 29: Băn khoăn trước giới hạn của cuộc đời.
– Đoạn còn lại: Hối hả, cuồng nhiệt đến với cuộc sống.

Câu 2. Khát khao lưu giữ hương sắc mùa xuân.

– “Tắt nắng”, “buộc gió” là quyền uy của Tạo Hóa. Cho dù Xuân Diệu là thi sĩ thì ông vẫn là con người làm sao có được khả năng vô hình đó. Chỉ vì quá yêu cuộc sống nên mới ước ao và nảy sinh ý tưởng táo bạo. Muốn níu giữ sắc hương, níu giữ mùa xuân cũng có nghĩa là muốn níu giữ thời gian cùng với vẻ đẹp cuộc sống cho mình, cho người. Cách biểu đạt mới lạ, độc đáo.

– Bốn dòng thơ, mỗi dòng năm chữ, ngắn, gấp. Nhịp thơ góp phần diễn tả sự khẩn trương muốn ngăn lại không cho màu nhạt, hương bay. Điệp kiểu câu “Tôi muốn … cho” càng làm nổi bật khát khao lưu giữ được sắ hương cuộc đời để mãi được cùng sống với nó.

Câu 3. Bức tranh mùa xuân ở độ “thời tươi” qua cảm nhận của một tâm hồn đang ở “thời trẻ”:

Của ông bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

– Hình ảnh thơ tập trung làm nổi bật vẻ tinh khôi, thanh tân, nõn nà, rực rỡ của mùa xuân (Muôn sắc hoa tươi thắm trên nền “xanh rì” đầy sức sống của đồng nội; cành tơ, lộc non mơn mởn, mượt mà…).

– Cảnh xuân không chỉ đẹp mà còn gợi tình (ong bướm “tuần tháng mật”, yến anh ca “khúc tình si”…)

– Cảnh sắc vốn quen thuộc nhưng bằng lỗi cảm nhận riêng, mới lạ, Xuân Diệu đã thổi vào thiên nhiên một tình yêu rạo rực khiến những hình ảnh vô tri vô bỗng sống dậy tràn ngập xuân tình. Câu thơ “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” mang dấu ấn thơ Xuân Diệu rất rõ. Trước hết là cách dùng từ chuyển đổi cảm giác quen thuộc của Xuân Diệu. Thi sĩ không thưởng thức mùa xuân bằng giác gian thông thường (nhìn, ngắm, lắng nghe) mà ông đang say sưa nhấm nháp hương vị của nó, cảm nhận được độ “ngon” mà mùa xuân đang dâng hiến. Mặt khác, ta còn thất ở câu thơ hấp dẫn, quyến rũ như hưởng thụ thiên nhiên rất Xuân Diệu. Mùa xuân hấp dẫn mà như đang thưởng thức “cặp môi” giai nhân. Quả là một cách ví von so sánh mới mẻ, táo bạo góp phần làm nổi bật niềm say mê cái đẹp trần thế đáng quý ở tác giả.

READ:  Đọc hiểu Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương

– Điệp ngữ “Này đây…” cùng với hàng loạt âm hình ảnh, màu sắc, âm thanh, Xuân Diệu đã liệt kê vẻ đẹp muôn màu của xuân, bày sẵn quanh ta, chẳng cần phải tìm kiếm. Chỉ cần có tâm hồn yêu thiết tha cuộc sống thì tha hồ nhìn ngắm, thưởng thức.

– > Đoạn thơ này là tiêu điểm góp phần lí giải các trạng thái cảm xúc của tác giả ở bốn câu đầu và những câu thơ tiếp theo.

Câu 4. Đoạn 3 thể hiện cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu.

– Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn đi rồi trở lại như bốn mùa xuân, hạ, thu, đông vì vậy họ thường ung dung, đủng đỉnh. Ở bài thơ này Xuân Diệu quan niệm thời gian tuyến tính. Thời gian được cảm nhận theo thước đo giá trị sống của con người. Mỗi khoảnh khắc trôi qua mang theo một sự mất mát:

Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.

Có thể Xuân vẫn tuần hoàn nhưng mỗi lần nó « đang qua », « sẽ già » là một lần mang theo nhiều cái đẹp đi mất.
– Nếu xuân là độ viên mãn nhất của thiên nhiên thì tuổi trẻ là độ căng tràn nhựa sống của một cuộc đời. Xuân tuần hoàn nhưng tuổi trẻ – màu xuân của cuộc đời, chẳng có hai lần. Thời gian, sẽ mang theo tuổi xuân của con người đi qua và vì vậy mà thi sĩ càng buồn hơn khi:

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.

Cách cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị sống của mỗi cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời đề vô cùng quý giá bởi vì khi đã trôi qua là mất vĩnh viện. Vì vậy con người phải biết quý từng giây phút của cuộc đời, phải sống có ý nghĩa. Đây là lí do nhà thơ sống vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh của thời gian. Câu 5. Hối hả, cuồng nhiệt đến với cuộc sống:

READ:  Soạn bài Tương tư - Nguyễn Bính

(Đoạn cuối bài thơ).

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn chiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng.
Cho no nên thanh sắc của thời tươi
– Hỡi Xuân Hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Xuân Diệu tả cảnh sắc mùa xuân về với thời non tươi của nó để tận hưởng. Hàng loạt hình ảnh tiếp tục làm nổi bật vẻ quyến rũ của sự sống đầy sắc hương nhưng không phải để tả mà chủ yếu để diễn đạt sự cuồng nhiệt, vội vàng tận hưởng của tác giả.

– Hàng loạt động từ tăng dần mức độ sự vồ vập, đắm say: ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn.

– Thủ pháp điệp được sử dụng đa dạng: Điệp cú pháp: điệp từ, ngữ; điệp cảm xúc theo lối tăng tiến (Ta muốn ôm, Ta muốn riết… Ta muốn cắn), trạng thái tăng tiến (cho chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê…).

– > Nét độc đáo về nghệ thuậ của đoạn thơ đó là những làn sóng ngôn từ đan xen, cộng hưởng theo chiều tăng tiến đã diễn tả rất thành công khao khát mãnh liệt của tác giả.

II. LUYỆN TẬP

1. Xuân Diệu đặt tên bài thơ là “Vội vàng”, bởi lẽ: Xuân Diệu yêu tha thiết cuộc sống, cuộc sống quanh ta rất đẹp nhưng tuổi trẻ qua nhanh, đời người ngắn ngủi, thời gian, không chờ đợi. Phải khẩn trương, hối hả đến với cuộc sống để tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời.

2. Quan điểm nhân sinh của Xuân Diệu được thể hiện qua bài thơ có mặt tích cực: Yêu mùa xuân và tuổi trẻ – những cái đẹp nhất của cuộc sống, hãy sống hết mình sao hco mỗi khoảnh khắc của đời mình có ý nghĩa. Đó là quan điểm sống tích cực, có giá trị nhân văn sâu sắc.