Cuộc đời và sự nghiệp nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

Nguyễn Khoa Điềm (tên khác là Nguyễn Hải Dương; sinh 15 tháng 4 năm 1943) sinh tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Thân sinh của ông là nhà báo Hải Triều, thuộc dòng dõi quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng, gốc An Dương (tỉnh Hải Dương cũ nay là Hải Phòng). Quê quán: làng An Cựu, xã Thủy An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ, nhà chính trị Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX; Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, Bộ trưởng Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).

Lúc nhỏ Nguyễn Khoa Điềm học ở quê. Năm 1955 ông ra miền Bắc học tại trường học sinh miền Nam. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, cùng một lứa với Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân.

Sau đó, ông vào miền Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên Huế; tham gia quân đội, xây dựng cơ sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, viết báo, làm thơ… cho đến năm 1975. Nguyễn Khoa Điềm từng bị giam tại nhà lao Thừa Phủ. Đến chiến dịch Mậu Thân 1968, ông được giải thoát, tiếp tục trở lại hoạt động. Vào thời điểm này, Nguyễn Khoa Điềm mới bắt đầu làm thơ.

Nguyễn Khoa Điềm trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1975. Sau 1975, ông tham gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản; Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ Thừa Thiên – Huế. Ông có mặt trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III. Năm 1994 Nguyễn Khoa Điềm ra Hà Nội, làm Thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin. Năm 1995, ông được bầu làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V.

Năm 1996, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, Nguyễn Khoa Điềm bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Ông là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X và từ tháng 11 năm 1996 là Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin [5]. Năm 2001, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, Nguyễn Khoa Điềm trở thành Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2001-2006). Hiện nay, ông nghỉ hưu và sống tại Thành phố Huế.

Tác phẩm

  1. Báo động
  2. Bếp lửa rừng
  3. Bước chân – Ngọn đèn
  4. Cái nền căm hờn
  5. Cát trắng Phú Vang
  6. Chiều Hương Giang
  7. Con chim thời gian
  8. Con gà đất, cây kèn và khẩu súng
  9. Đất ngoại ô (1973)
  10. Mặt đường khát vọng (1974)
  11. Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986)
  12. Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990)
  13. Cửa thép (1972)
  14. Đất và khát vọng
  15. Trường ca
  16. Đất nước
  17. Giặc Mỹ
  18. Gửi anh Tường
  19. Hình dung về Chê Ghêvara
  20. Hồi kết cuộc
  21. Khoảng trời yêu dấu
  22. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
  23. Lau
  24. Lời chào
  25. Màu xanh lên đường
  26. Mùa Xuân ở A Đời
  27. Ngày vui
  28. Nghĩ về một nhãn hiệu
  29. Người con gái chằm nón bài thơ
  30. Nơi Bác từng qua
  31. Nỗi nhớ
  32. Tháng chạp ở Hồng Trường
  33. Thưa mẹ con đi
  34. Tiễn bạn cuối mùa đông
  35. Tình Ca
  36. Tôi lại đi đường này
  37. Trên núi sông
  38. Từ những gì các anh trao?
  39. Tuổi trẻ không yên
  40. Vỗ Hờn
  41. Xanh xanh bóng núi
  42. Xuống đường

Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm trong Trường ca mặt đường khát vọng

Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Cuộc kháng chiến chống Mỹ dần lui vào lịch sử. Song, những năm tháng hào hùng đó không thể nào quên. Có một pho sử được chép bằng những tác phẩm thơ ca, dài suốt hai mươi năm.Trên trái đất này, không một dân tộc nào lại không tha thiết với hòa bình, độc lập. Song, có lẽ, với dân tộc ta, khát vọng ấy cháy bỏng hơn cả. Suốt hành trình giữ nước, không có thời nào thiếu vắng những dũng sĩ cầm thanh gươm nghìn cân ra trận, âm vang trận mạc đã làm nên dòng chủ lưu của thơ chống Mỹ.

Sự ra đời phát triển của nền thơ chống Mỹ đã góp phần vào cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử văn học Việt Nam, thơ ca lại đóng góp nhiều tài năng, tâm huyết với những tác phẩm có sức sống với thời gian như thơ giai đoạn chống Mỹ. Đặt thơ chống Mỹ trong lòng thời đại, có thể khẳng định mỗi vần thơ là tiếng gọi động viên, cổ vũ dân tộc vùng lên đánh giặc. Một trong những nét nổi bật của thơ chống Mỹ là sự xuất hiện của đội ngũ những nhà thơ trẻ. Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Nguyễn Khoa Điềm…Chính họ làm nên sức bật và sức sống mới cho thơ ca giai đoạn này. Chính họ đã cất lên tiếng nói đầy tự tin về ý thức trách nhiệm và nhiệt huyết cháy bỏng trong trái tim cả thế hệ mình – thế hệ tự nguyện nhập cuộc và trải nghiệm qua thử thách chiến tranh. Mỗi gương mặt thơ trẻ đó mang một cá tính, một giọng điệu riêng làm nên những phong cách nghệ thuật độc đáo.

… Chúng tôi làm thơ ghi lấy
cuộc đời mình
… Bài hát của chúng tôi
Là bài ca ống cóng
… Là ta hát những lời của ta
… Mỗi câu thơ như sợi tơ dài
Rút ra từ tháng ngày bom đạn.

Họ đã dám sống hết mình với thời đại: những câu thơ thật chân thành từ suy nghĩ nội tâm của thời đó, mà hôm nay đọc lại, ai đó dễ quy chụp là có phần nào cao giọng, cường điệu. Sự thật, nó vẫn phản ánh trung thực những suy nghĩ tâm huyết và phổ biến của một thời. Phải đặt vào đúng văn cảnh của nó, thì mới thấy hết được rằng đó là những câu thơ hay, những câu thơ gan ruột: “Ði qua hết tuổi thanh xuân / Ðể lại trong rừng những gì quý nhất / Mất mọi thứ để nhân dân không mất”(Phạm Tiến Duật), là: “Trời ơi! Nếu kẻ thù chiếm được / Chỉ một gốc sim thôi, dù chỉ gốc sim cằn / Tổ quốc sẽ ra sao, Tổ quốc!” (Hữu Thỉnh). Hoặc giản dị làm sao, khi được soi lại một khoảnh khắc ngẫu hứng những gì mà ta từng nhất mực hy sinh: “Bạn cùng đi với tôi trên vỉa hè rạn vỡ: / – Ðây là những gì chúng ta đã sống và đã chết / Người con gái áo trắng đi về tương lai nào đó: / – Ðây là những gì chúng ta đã đổ máu và hát ca!”. (Nguyễn Khoa Ðiềm) “Cả thế hệ dàn hàng gánh đất nước trên vai”. “Người ta không thể chọn để được sinh ra/ Nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng, phút giây, năm tháng ấy…” Cho con xin bắt đầu từ mẹ/Để nói về chúng con/ Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng/áo lính/Đã từng sung sướng, đã từng nghẹn ngào/Được làm con mẹ/ Được ra trận những năm đất nước mình khốc liệt…/(Thanh Thảo). Mẹ đó là Tổ quốc, đất nước yêu thương.

Trong số các nhà thơ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm viết không nhiều, nhưng từ số lượng ít ỏi ấy vẫn hiện lên một tâm hồn thi sĩ thực sự với những rung động tinh tế, với thế giới nội tâm nồng nàn sâu lắng. Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ có phong cách rõ nét và có đóng góp quan trọng cho thành tựu của thơ chống Mỹ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm là những phác hoạ về chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa những năm chống Mỹ, và là bức tranh về phong trào đấu tranh chính trị của học sinh, sinh viên trong đô thị tạm chiếm miền Nam. Mảng nội dung quan trọng này được thông qua một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm với một ngòi bút tài năng. Thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết tinh của xúc cảm và trí tuệ để thăng hoa thành thơ. Đó không chỉ là sản phẩm của một trí tuệ giàu có, một tư duy sắc sảo mà đó còn là sản phẩm của một tấm lòng, một trái tim nên có sức lay động ở tận đáy sâu tâm hồn người đọc.

1. Nền thơ chống Mỹ và âm hưởng chung của thơ trẻ miền Nam chống Mỹ.

1.1. Nền thơ chống Mỹ .

Văn học Việt Nam thời kì chống Mỹ cứu nước (1965 – 1975) có một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Đây là thời kì văn học phát triển rực rỡ trên nhiều thể loại, trở thành cuốn biên niên được các nhà thơ khắc hoạ một cách chân thực về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Thơ giai đoạn chống Mỹ cứu nước thể hiện Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, bản lĩnh con người Việt Nam, phản ánh được khí thế tầm vóc của cả một dân tộc mang hơi thở thời đại. Có thể nói đây là thời kì rực rỡ nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại. Từ tháng 8 năm 1964, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới gay go, ác liệt. Nhanh nhạy và kịp thời, nền thơ hiện đại đã nhập cuộc tham gia vào cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của toàn dân tộc. Suốt những năm tháng chiến tranh, các thế hệ nhà thơ đã tiếp bước nhau dàn quân trên các mặt trận với cảm hứng chủ đạo là thể hiện khát vọng độc lập tự do và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại chống Mỹ.

Nền thơ chống Mỹ được hình thành từ nhiều thế hệ nhà thơ: Thế hệ nhà thơ xuất hiện trước cách mạng (Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh…), thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp (Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Quang Dũng…) và thế hệ các nhà thơ trẻ ra đời trong thời kì chống Mỹ. Mỗi nhà thơ nói trên đều có thế mạnh riêng và có những đóng góp đáng ghi nhận cho nền thơ chống Mỹ. Chỉ trong vòng mười năm, nền thơ chống Mỹ đã liên tục xuất hiện những gương mặt trẻ như (Thái Giang, Nguyễn Mỹ, Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Khoa Điềm, Bế Kiến Quốc, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mỹ Dạ…) Đó là những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ thời kì chống Mỹ. Các nhà thơ thời kì này ý thức sâu sắc trách nhiệm công dân của mình. “Các nhà thơ đã đưa thơ lên những chiến hào, nơi mũi nhọn của cuộc chiến đấu” Chế Lan Viên đã tự hào vẽ lên vóc dáng và tư thế của nhà thơ trong cuộc chiến đấu của cả dân tộc:

“Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ,
Bên những dũng sĩ diệt xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi”

(Tổ quốc bao giờ đẹp thế nàychăng?)

Còn Xuân Diệu thì nói về sự gắn bó của nhà thơ với nhân dân, đất nước:

Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao

(Những đêm hành quân)

Thơ thời kì kháng chiến chống Mỹ tập trung xây dựng hai loại hình tượng cái tôi trữ tình đó là “cái tôi” sử thi và “cái tôi” thế hệ. Cái tôi sử thi đã tạo cho nhà thơ một tâm thế mới. Nhà thơ phát ngôn cho cả dân tộc, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đứng ở tầm cao thời đại để bao quát cả thời gian, không gian, cả hiện tại và quá khứ, tương lai để phát hiện suy ngẫm. Vì vậy hình tượng trong thơ cũng mang tầm vóc sử thi, tầm vóc con người được đo bằng chiều kích không gian, vũ trụ, khắc hoạ được tầm vóc dân tộc trong thời đại đánh Mỹ.

Thơ ca chống Mỹ không chỉ đóng góp to lớn về mặt nội dung, mà còn thể hiện bước tiến lớn về mặt hình thức. Hiện thực cuộc sống ùa vào thơ góp phần tạo nên những cách thể hiện mới mẻ, độc đáo, vừa tìm những mảnh đất mới để khai phá, vừa “thâm canh” trên chính mảnh đất của những hình thức và phương tiện biểu hiện truyền thống. Tất cả những bước tiến đó đã khẳng định sự thâm nhập của thơ với hiện thực, khả năng nắm bắt tinh nhạy, kịp thời của các nhà thơ trước thời đại lịch sử. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã giành được thắng lợi, thơ chống Mỹ đã góp một tiếng nói xứng đáng về cuộc ra trận lớn lao của dân tộc, “Không có nhiều trong những bức tranh xã hội rộng lớn, những câu chuyện kể hấp dẫn về cuộc sống dân tộc, nhưng thơ chống Mỹ là tiếng nói tâm tình tha thiết, là khúc ca chiến đấu, là lời tự bộc lộ chân tình ý chí của một dân tộc quyết chiến và quyết thắng” . Nó hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của một nền thơ, ghi lại được thời kì lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc, đánh dấu một chặng đường phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại..

1.2. Thơ trẻ miền Nam chống Mỹ.

Trong thành công của phong trào thơ chống Mỹ, phải kể đến sự đóng góp rất lớn của thế hệ các nhà thơ trẻ, trong đó có các cây bút sinh viên – học sinh miền Nam như: Trần Quang Long, Nguyễn Thái Bình, Thái Ngọc San, Trần Vàng Sao, Đông Trình, Tần Hoài Dạ Vũ, Võ Quê… Hàng loạt các tập thơ ra đời nói lên tinh thần yêu nước và đấu tranh của thế hệ trẻ miền Nam Thơ họ trẻ trung đằm thắm, vượt lên những chán chường bế tắc và những vay mượn siêu hình đương thời để cất lên tiếng gọi lên đường:

Nếu thơ con bất lực
Con xin nguyện trọn đời
Dùng chính trái tim mình làm trái phá
Sống chết một lần thôi

Đó là những vần thơ của Trần Quang Long – một cây bút bỏ thành ra vùng giải phóng sau Mậu Thân 1968. Anh đã thực hiện lời thề thiêng liêng, tha thiết trong thơ, và đã ngã xuống trong tư thế người chiến sĩ. Có những bài thơ đã kết nối tuổi trẻ đấu tranh bởi sức lay động sâu xa của nó. Trong lửa đạn chiến tranh, những bài thơ của Trần Vàng Sao, Trần Quang Long, Võ Quê…thực có sức cảm hoá lạ lùng. “Bài thơ của một người yêu nước mình” – Trần Vàng Sao, đăng lần đầu trên báo Sài Gòn đã được quay rônêô ở chiến khu, sau đó chuyển phát hành về Huế năm 1967 và được lưu truyền rộng rãi. Võ Quê viết những bài thơ “Lục bát từ Côn đảo” trong những ngày tù đày. Và từ khí thế đấu tranh sôi nổi của phong trào học sinh, sinh viên Huế, nhà thơ đã viết những câu thơ hào sảng về một ngày giải phóng:

Kiêu hùng tóc biếc bay cao
Em tung nón rách em gào tự do…

Đó là khí thế của cả nước nói chung và của Huế nói riêng trong những ngày sục sôi chống Mỹ. Những hình ảnh giàu tính biểu cảm trên thể hiện khí thế của tuổi trẻ thành Huế quyết tâm đứng lên đấu tranh giải phóng quê hương. Thơ Nguyễn Kha cũng như đốt bùng lên phong trào tuổi trẻ học đường. Và nhà thi sĩ – chiến sĩ ấy cũng đã hy sinh trên một sườn đồi ở ngoại ô thành Huế:

Ta nghe chừng đoàn người ngựa Thăng long
Đang phá vỡ trùng vây, đập tan quân cướp nước
Ta đã thấy vành đai mở rộng
Thành phố rộn ràng khoác áo tứ thân

Nhìn chung các tác phẩm của các tác giả trên đã thể hiện được chiều sâu tâm hồn, tình cảm của những người đang chiến đấu. Họ đại diện cho tuổi trẻ miền Nam và cả nước đứng lên tranh đấu giải phóng đất nước, quê hương. Ở họ đều có một điểm chung đó là lòng yêu nước. Những câu thơ trẻ trung đằm thắm của họ góp phần tạo nên hình ảnh đẹp của thế hệ trẻ miền Nam. Thơ trẻ chống Mỹ là một hiện tượng đặc biệt, bởi chưa có giai đoạn nào trong thơ lại cùng một lúc xuất hiện một đội ngũ đông đảo các nhà thơ cùng một thế hệ tuổi trẻ. Giữa chiến trường rộng lớn mỗi nhà thơ chọn cho mình một mảng hiện thực phù hợp để sáng tác, tạo ra những vùng thẩm mỹ riêng. Nếu như vùng thẩm mỹ của Phạm Tiến Duật là đường Trường Sơn với cuộc sống của những người lính lái xe, của những cô thanh niên xung phong thì vùng thẩm mỹ của Nguyễn Khoa Điềm là phong trào học sinh, sinh viên đô thị bị tạm chiếm miền Nam. Chọn cho mình một mảng hiện thực đặc biệt nên tiếng thơ Nguyễn Khoa Điềm có một giọng điệu riêng. Đó là tiếng nói đại diện của tuổi trẻ miền Nam trong quá trình nhận đường về với nhân dân, với dân tộc. Quá trình nhận thức ấy quả không đơn giản. Sống trong thành phố bị kẻ thù chiếm đóng, Cách mạng đối với họ thật xa lạ. Đối diện với từng ngày từng giờ là cảnh bắt lính của chính quyền tay sai, là những cám dỗ của cuộc sống tiêu cực, buông thả:

Sông Hương ơi sông Hương
Ngươi còn nguồn với bể
Để đi và để đến
Còn ta hai lăm tuổi
Trôi cạn trên mặt đường

(Mặt đường khát vọng)

Trường ca Mặt đường khát vọng đã tái hiện lại quá trình nhận thức của tuổi trẻ miền Nam dưới ách Mỹ – Ngụy: từ nỗi đau quê hương nhận rõ chân tướng kẻ thù, sự thức tỉnh về trách nhiệm của tuổi trẻ trong công cuộc cứu nước, tình cảm với nhân dân đất nước để rồi cuối cùng xuống đường, hoà vào dòng thác nhân dân đấu tranh vì độc lập tự do. Hành trình đến với lý tưởng, với cách mạng, nhân dân của tuổi trẻ thành thị miền nam vô cùng gian nan, phức tạp. Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh họ, và nhà thơ hoà nhập với tuổi trẻ miền Nam để cất lên tiếng nói của chính họ. Nhà thơ cùng họ thấm thía xót xa về thân phận nô lệ:

Phượng vẫn rơi những cánh tươi hồng
Đau như máu những tâm hồn son trẻ
Sao con học để làm bầy nô lệ
Súng Mỹ hôm nay thành giáo cụ học đường

Với sự đồng cảm sâu sắc, với vốn hiểu biết khá kĩ lưỡng về cuộc sống của tuổi trẻ thành thị miền Nam – kết quả của một quá trình công tác gắn bó với thực tiễn phong trào học sinh, sinh viên, ở trường ca Mặt đường khát vọng, tuổi trẻ thành thị miền Nam đã cất tiếng thông qua khúc hát của nhà thơ.

2. Nguyễn Khoa Điềm – phong cách thơ đặc sắc của Thơ trẻ chống Mỹ.

2.1 .Khái niệm phong cách nghệ thuật thơ.

Buffon cho rằng: “Phong cách chính là người” mỗi nhà văn thường có một tạng riêng. Thi pháp văn học Nga định nghĩa “Phong cách là một hệ thống hình thức và nội dung nhất định, là nguyên tắc thẩm mỹ để cấu trúc toàn bộ nội dung và hình thức”. Các nhà nghiên cứu lí luận nước ta cũng đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu nội hàm thuật ngữ phong cách. Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học trên cơ sở thừa nhận hai phạm trù: phong cách ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật đã định nghĩa “Đó là cái riêng tạo nên sự thống nhất lặp lại biểu hiện tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và ở hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy”. Quả thật tính độc đáo là yếu tố quyết định tạo phong cách nghệ thuật.

2.2 Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Trong quá trình vận động và phát triển của nền thơ chống Mỹ, xuất hiện thế hệ các nhà thơ trẻ, trong đó có Nguyễn Khoa Điềm. Nhà thơ đã có mặt và đi suốt cả chặng đường chiến tranh và đã đánh dấu thành tựu của mình qua những chặng đường sáng tác. Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm thời kì chống Mỹ cứu nước là cảm hứng lớn về đất nước và nhân dân anh hùng Sự thống nhất độc đáo của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm nằm ở cảm hứng hiện thực thời đại, ở những chủ đề quen thuộc, ở phương diện thể hiện cái tôi trữ tình phong phú đa dạng, với lớp ngôn từ, hình ảnh cảm xúc ẩn sau bề mặt câu chữ một cảm quan lịch sử văn hoá sâu sắc độc đáo. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm yêu nước không đơn giản chỉ là nhiệt tình hăng hái chiến đấu và căm thù giặc mạnh mẽ. Với Nguyễn Khoa Điềm tình yêu đất nước làm sống dậy trong trang thơ lịch sử bốn ngàn năm hào hùng của dân tộc với những chiến công dựng nước và giữ nước của cha ông. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng hiện của những gì gần gũi nhất, thân thương nhất của mỗi con người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai, trong thời gian và không gian, trong lịch sử và truyền thống văn hoá… Ở Nguyễn Khoa Điềm lòng yêu nước là hồn Việt thấm đượm trong tâm hồn để từ đó đúc kết một chân lý vững vàng: Đất nước của nhân dân. Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối hầu hết các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Vì vậy tiếng thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ nói lên những suy nghĩ cảm nhận của tuổi trẻ trong chiến tranh, về sự lạc quan hay cái nhìn nghiêm túc thành thật, thậm chí trần trụi về những mất mát… mà còn bộc lộ những suy nghĩ hiện thực sâu sắc hơn rất nhiều. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện lòng yêu nước qua việc tranh luận về tuổi trẻ, về nhân sinh quan để dựng lại cả quá trình “tìm đường” và“nhận đường” của tuổi trẻ đô thị miền Nam về với con đường cách mạng của dân tộc, nhân dân. Tài năng và cá tính sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm còn bộc lộ trong những phương diện nghệ thuật: đó là thi pháp biểu hiện mang phong cách riêng, từ giọng điệu trữ tình giàu chất chính luận, đến việc xây dựng chất liệu thơ giàu chất liệu hiện thực, chất liệu văn hoá và giàu tính liên tưởng..,từ việc sử dụng những tín hiệu thẩm mỹ vừa truyền thống vừa hiện đại đến việc sử dụng linh hoạt thể thơ tự do với những cung bậc khác nhau của cảm xúc với một vốn từ ngữ giàu có vừa dân dã vừa mang tính văn hoá thời đại.

2.3 Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm trong “Mặt đường khát vọng”

2.3.1 Hoàn cảnh sáng tác trường ca “Mặt đường khát vọng”.

Năm 1964 sau khi tốt nghiệp khoa Văn Đại học sư phạm Hà Nội, Nguyễn Khoa Điềm trở về quê hương, hoà mình vào cuộc chiến đấu dữ dội tại chiến trường Bình Trị Thiên. Tiếp xúc trực tiếp với chiến tranh, tận mắt chứng kiến tội ác của kẻ thù và cuộc chiến đấu gian khổ bất khuất của đồng chí, đồng bào, những điều đó đã khơi nguồn cảm hứng mãnh liệt cho hoạt động sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Trở về Huế, sau nhiều tháng trời hành quân ròng rã, Nguyễn Khoa Điềm đến Tỉnh uỷ Thừa Thiên và được phân công công tác vận động thanh niên của Thành uỷ Huế. Thời gian hai năm gắn bó với phong trào học sinh sinh viên thành phố Huế có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Đây là thời gian nhà thơ hoà mình vào tuổi trẻ thành phố bị chiếm đóng. Từ những “đêm không ngủ”, những ngày “xuống đường”, Nguyễn Khoa Điềm đã tích luỹ cho mình vốn sống và sự trải nghiệm để cảm hứng thơ trào lên thành trường ca Mặt đường khát vọng. Trường ca Mặt đường khát vọng được viết tại khu sáng tác Trị Thiên – Huế tháng 10 năm 1971 dài 9 chương: Lời chào, Báo động, Giặc Mỹ, Tuổi trẻ không yên, Đất Nước, Áo trắng và mặt đường, Khoảng lớn âm vang, Báo bão. Đặc biệt thành công nhất là chương Đất nước. Đất nước đã trở thành một bài thơ có sức sống độc lập, thể hiện trọn vẹn tài năng phong cách Nguyễn Khoa Điềm. Cùng với Đất nước của Nguyễn Đình Thi, bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm trở thành hai áng thơ đẹp nhất viết về Tổ quốc của văn học Việt Nam hiện đại.

2.3.2. Đất Nước của Nhân dân

Nhà nghiên cứu Hoài Anh cho rằng thơ Nguyễn Khoa Điềm phát sáng trong chủ đề sóng đôi: Đất và Khát vọng. Cảm hứng Đất nước ôm trùm chi phối những nguồn cảm hứng khác. Trong chiến tranh cảm hứng Đất nước đi liền với khát vọng gìn giữ chủ quyền dân tộc chiến thắng kẻ thù xâm lược. Chủ đề này được Nguyễn Khoa Điềm triển khai trong thơ từ không khí sử thi hào hùng của cuộc chiến đấu chống Mỹ.Để tái hiện tinh thần thời đại, thơ Nguyễn Khoa Điềm phơi bày những cảm xúc nồng nàn bay bổng trước vận mệnh chung của toàn dân tộc. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm hứng sử thi anh hùng bao giờ cũng đi cùng cảm hứng lãng mạn và lí tưởng hoá tạo nên những hình ảnh thơ kì vĩ hùng tráng:

Một mùa xuân tiếng đại bác rầm rầm
Bản hành khúc những binh đoàn giải phóng
Vút từng không tiếng gió phất cờ sao
Ôi ngày hội của những người đứng lên đòi quyền được sống

Cảm hứng sử thi bao giờ cũng song hành với chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Cảm hứng sử thi là cảm xúc cao trào, dâng tràn lòng yêu nước, tự hào trước sự quật khởi của đất nước. Trong tâm thức Nguyễn Khoa Điềm luôn quan niệm chính Nhân dân vô danh đã làm nên đất nước. Có lẽ vì vậy mà chủ nghĩa anh hùng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không xuất hiện những tên tuổi vang dội mà nhà thơ thường chú ý khai thác chất anh hùng trong những biểu hiện hàng ngày của cuộc chiến đấu ác liệt với những con người bình dị. Ở phương diện chiếm lĩnh hiện thực chiến trường, thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hòa vào dàn đồng ca hào hùng của thơ trẻ chống Mỹ. Nếu như trong âm hưởng chung người ta có thể nhận ra những giọng điệu riêng biệt: Hoàng Nhuận Cầm hồn nhiên mơ mộng; Phạm Tiến Duật hóm hỉnh tinh nghịch pha chút ngang tàng; Dương Hương Ly khoẻ khoắn thiên về ngợi ca; Bằng Việt sâu lắng và trong sáng…thì thơ Nguyễn Khoa Điềm là thứ thơ đằm sâu mà ngân vang. Độ sâu sắc của thơ Nguyễn Khoa Điềm phần nào nổi trội hơn nhiều tác giả trẻ khác chính là ở sự thể hiện phong phú và xúc động một chủ đề, một tư tưởng: Đất nước của nhân dân được soi chiếu từ góc nhìn lịch sử – văn hóa và thông qua những trải nghiệm của chính nhà thơ.

Nguyễn Khoa Điềm có một vốn tích luỹ phong phú về nền văn hóa dân tộc. Bước vào cuộc chiến tranh, sự tàn khốc dường như càng thôi thúc nhà thơ suy nghĩ nhiều hơn, sâu hơn về đất nước để có những phát hiện tinh tế có khả năng làm sống dậy những hình ảnh đẹp của văn hóa dân tộc. Khi được hỏi về những sáng tác trong chiến tranh, Nguyễn Khoa Điềm đã tâm sự: “Chúng tôi là những tri thức trưởng thành qua chiến tranh. Chúng tôi phải huy động hết những phần văn hóa của mình để chứng minh sức mạnh của mình, khả năng tồn tại của mình, chứng minh mình là con người, lớp người có văn hóa. Chính bởi thế mà trong không khí sặc mùi thuốc súng ấy, giữa cái giáp ranh của sự sống và cái chết, tôi muốn đưa vào thơ những hình ảnh đậm nét văn hóa nhất của quê hương đất nước mình” Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta là một bản trường ca vĩ đại, hào hùng. Để phản ánh hết không khí hào hùng đó, người viết phải lựa chọn cho mình một hình thức biểu đạt sao cho phù hợp nhất nhưng lại có dấu ấn phong cách riêng. Trước yêu cầu đó, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm cho mình một cách đi riêng. Khái quát những chủ đề về nhân dân, đất nước, về cách mạng, nhà thơ đã kết hợp chất liệu truyền thống và hiện đại, trên cơ sở vận dụng những hiểu biết về địa lí, phong tục tập quán của nhân dân, đất nước. Để phản ánh hết được cái hào hùng của thời đại, nhiều nhà thơ thời kì này đều sử dụng thể trường ca – một thể loại thể hiện được những sự kiện, biến cố lớn của dân tộc. Nếu trường ca Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh Xuân là một tình khúc ca được thể hiện qua thơ lục bát thật dịu dàng đằm thắm; “Bài ca chim chơ rao” của Thu Bồn lãng mạn, phóng khoáng và bay bổng thì trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ xuống đường tranh đấu, trong đó những trang thơ khắc hình Đất nước là những nốt nhạc rung động lòng người, được toả sáng dưới một cái nhìn mới mẻ đầy tính phát hiện. Xuyên suốt chương Đất nước là tư tưởng “Đất nước của nhân dân” nhuần nhuỵ trong hình thức “Đất nước của ca dao thần thoại” như một sợi chỉ đỏ tạo nên mạch chảy đằm sâu, tha thiết trong xúc cảm của nhà thơ. Nó như là một bản nhạc với đầy đủ những âm vực cao độ xen kẽ nhau, hoà quyện vào nhau tạo nên sự hấp dẫn lôi cuốn người đọc.

READ:  Chuyên đề 3: “Truyện Kiều” – Nguyễn Du - Ôn thi vào lớp 10

Thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đề tài Đất nước, Nhân dân, Giọng thơ đầy xúc cảm, trang trọng khi hát khúc hát sử thi hoành tráng về Nhân dân, Đất nước. Trọng tâm của bản trường ca nằm ở chương Đất nước, tập trung và thăng hoa những suy nghĩ sâu xa nhất của nhà thơ những năm tháng chiến tranh. Đất nước được tái hiện trong những hình ảnh thân thiết với mỗi con người, Đất nước cũng được đặt trong cái nhìn lịch sử và văn hóa trong “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông” để mỗi người cảm nhận hết tầm cao cả thiêng liêng của hai từ Đất nước. Đất nước – đó là sự hóa thân của lịch sử, của bao thế hệ đem máu xương gìn giữ:

Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

(Mặt đường khát vọng)

Cảm quan lịch sử – văn hóa sâu sắc đã tạo nên một chiều sâu riêng, sức hấp dẫn khơi gợi đặc biệt của chương Đất nước. Chương này là điểm hội tụ và tỏa sáng toàn bộ bản trường ca, tạo nên một vẻ đẹp độc đáo khác biệt so với những trường ca cùng thời. Để tái hiện quá trình bắt đầu và lớn lên của Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sống dậy cả một không gian văn hóa cổ xưa của dân tộc, trong bề dày lịch sử bốn nghìn năm. Bề dày lịch sử ấy chứa đựng cả chiều sâu của một nền văn hoá phong phú, lâu đời, đầy nhân hậu với cả một truyền thống quý báu của dân tộc: cần cù, chịu khó trong học tập, làm ăn, dũng cảm trong chiến đấu, chung thuỷ bền vữngtrong tình yêu. Người đọc gặp ở chương Đất nước thế giới của truyện cổ, kho tàng của ca dao… Lời kể ngày xửa ngày xưa của mẹ mở ra xứ sở cổ tích thần kì; miếng trầu của bà gợi câu chuyện Trầu cau, với tình người nồng hậu, thuỷ chung, biểu tượng đạo lí sáng đẹp yêu thương của dân tộc; luỹ tre xanh gợi truyền thuyết Thánh Gióng, như khúc anh hùng ca tráng lệ về sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam từ buổi bình minh non trẻ dựng nước và giữ nước, và hình ảnh “gừng cay muối mặn” nghĩa tình đằm thắm trong ca dao. Đất nước được gợi lại từ lịch sử, được sống dậy qua phong tục tập quán trong đời sống tinh thần của nhân dân: miếng trầu,trồng tre, bới tóc sau đầu, cách đặt tên người, cả tình yêu của con người…Tất cả đều làm nên khuôn mặt dân tộc – một dân tộc nghĩa tình đằm thắm. Chất dân gian, hồn dân tộc như thấm vào từng câu từng chữ. Đất nước bắt nguồn từ những cái hàng ngày gần gũi, cũng lại là những cái bền vững sâu xa hình thành tồn tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc, từ những phong tục tập quán được tiếp nối thiêng liêng, qua nhiều thế hệ. Đó chính là chiều sâu văn hóa – lịch sử của đất nước, nó góp phần khẳng định Đất nước có từ xa xưa, từ khởi thuỷ của dân tộc khi những cư dân đầu tiên khai phá đất đai lập nên xứ sở. Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước được hình thành từ sự hội tụ của hai yếu tố Đất và Nước. Hai yếu tố này kết hợp với nhau để rồi từ đó sinh thành nên cơ thể đất đai, nước non, xứ sở. Những năm chiến tranh, đến với ngọn nguồn Hương Giang, Nguyễn Khoa Điềm đã từng suy ngẫm về cội nguồn Đất Nước:

Một cái gì rả rích
Dưới mấy cội kền kền
Như là đất và nước
Ru lời ru đầu tiên

(Bạn ơi, bạn có nhớ)

Trong chương Đất nước của trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm cũng suy cảm về lãnh thổ bắt đầu từ hai yếu tố ấy: Đất là nơi em đến trường /Nước là nơi em tắm. Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc / Nướclà nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi. Đất là nơi chim về / Nước là nơi rồng ở. Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn cho rằng đó là một loạt “Những định nghĩa bằng thơ, chúng là sản phẩm của một tư duy vừa giàu chất trữ tình thi ca vừa mang tính huyền thoại vừa thấm đượm phong vị triết học.” Hai yếu tố Đất và Nước được nhà thơ soi chiếu trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện tại. Đất nước là mảnh đất quen thuộc gắn bó với mỗi con người, đất nước thân thương như mái trường ta học, như dòng sông em tắm, như góc phố , đình làng, ao sen, lũy tre , cây đa, bến nước nơi lứa đôi hò hẹn, một không gian nhỏ chỉ hai người biết, hai người hay, rất riêng tư nhưng cũng đậm hồn quê hương xứ sở . Đất nước còn là núi sông rừng bể bao la, là không gian sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt. Trải qua thời gian, Đất nước trở thành một giá trị lâu bền, vĩnh hằng và được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác:

Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng

Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” như một cảm quan lịch sử chủ đạo của Nguyễn Khoa Điềm, chi phối cái nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử của đất nước, được gìn giữ và kiến tạo bằng máu và mồ hôi của những con người bình dị không tên tuổi. Lịch sử ấy được kết thành từ bao thế hệ, bao số phận: những người vợ nhớ chồng ra trận, từ anh học trò nghèo, những con gà con cóc nhỏ bé, đến gót ngựa Thánh Gióng, 99 con voi chầu đất Tổ Hùng Vương…Mỗi người, mỗi vật đi qua trong lịch sử, trong không gian, thời gian đều để lại một chút gì cho đất nước. Đó chính là nhân dân, bằng những cuộc đời thầm lặng, vô danh đã kiến tạo nên giá trị vĩ đại và trường tồn, đó là Đất nước:

Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước

Với cái nhìn xuyên suốt lịch sử, tác giả nhấn mạnh vai trò của nhân dân. Nhân dân bắng máu xương của mình đã chiến đấu bảo vệ gìn giữ Đất nước. Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước còn là sự nối liền các thế hệ Việt Nam, họ đã lao động, sáng tạo, gìn giữ và truyền lại cho đời sau mọi giá trị văn hoá vật chất, tinh thần: từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa được tạo nên bởi bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán lâu đời: tên xã, tên làng, giọng nói cha ông…Họ là những anh hùng văn hoá, họ đã bảo tồn từ đời này sang đời khác phong tục và lối sống của dân tộc mình:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than con cúi
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân.

Đất nước cũng chính là phần tâm linh ngay trong máu thịt mỗi con người: Trong anh và em hôm nay / đều có một phần đất nước. Giọng thơ đặc biệt xúc cảm của những người cùng thế hệ, thông qua giọng ân tình nhắn nhủ của tình yêu, của anh và của em, Nguyễn Khoa Điềm nói lên được sự thống nhất, gắn bó giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và dân tộc. Trách nhiệm và bổn phận đối với đất nước chính là trách nhiệm đối với bản thân mình:

Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nước muôn đời

Cũng trong dòng cảm xúc ấy Chế Lan Viên đã viết

Ôi Tổ quốc , ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…

Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:

“Nuôi lớn người từ ngày mở đất,
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”.
“Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất”

(“Bài thơ của một người yêu nước mình” 19/12/1967)

Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước không chỉ được cảm nhận trong chiều dài của thời gian lịch sử, mà còn được được cảm nhận trong chiều rộng của không gian địa lí và chiều sâu của truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Nếu như không gian trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi là bầu trời, núi rừng, cánh đồng, ngả đường, dòng sông…(Trời xanh đây là của chúng ta / Núi rừng đây là của chúng ta…) thì không gian trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại là sự mở mang, lan toả các vùng đất gắn với sự sống và tinh thần dân tộc. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, đất Tổ Hùng Vương, Hạ Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…, không còn đơn giản là tên đất, tên người, tên sông, tên núi mà đó là kết tinh của truyền thống nhân văn cảm động về những người dân Việt Nam đời thường bình dị, vô danh đã làm nên Đất nước: Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy – Những cuộc đời đã hoá núi sông ta . Đó là lịch sử và cũng là hiện thực của dân tộc, nhân dân ta đang sống và chiến đấu giành sự sống. Sự mới mẻ độc đáo về hình tượng Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm một phần được tạo nên nhờ cách xử lý ngôn ngữ thơ đầy sáng tạo, nhờ cách sử dụng hình ảnh, tín hiệu thẩm mĩ của ca dao tục ngữ, của đời sống dân gian … với một tần số lớn. Chưa bao giờ cùng một lúc xuất hiện trong thơ một trường văn hoá thuần Việt đặc sắc và phong phú như vậy. Đó là những huyền thoại lịch sử đã đi vào tâm linh bao thế hệ người Việt về cội nguồn dân tộc:

Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Sự tích hòn Vọng Phu nói lên sự thuỷ chung của người vợ hóa đá chờ chồng; Hòn Trống Mái hiện thân của cặp vợ chồng yêu nhau tha thiết. Những luỹ tre, ao đầm để lại mang dấu tích của vết ngựa Thánh Gióng năm nào…Đó là những truyện cổ thấm đẫm lòng yêu nước, yêu cái thiện, yêu lẽ phải trên đời và sự vươn lên bằng niềm tin, hy vọng:

Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật
Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
Dẫu phải cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu…

Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn là phong tục tập quán ngàn đời của dân tộc ta:

Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Con nộm nang tre đánh lừa cái chết
Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu…
Đánh lừa thằng giặc là truyện Trạng Quỳnh.

Lời thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về Đất nước có một giọng cuốn hút đặc biệt, trầm lắng và tha thiết, bởi phong vị ca dao tập trung của rất nhiều thành ngữ, quán ngữ: ngày xửa ngày xưa, gừng cay muối mặn, một nắng hai sương, con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi, yêu em từ thuở trong nôi, quý công cầm vàng, nuôi cái cùng con…Tất cả những truyền thuyết, truyện cổ, hình ảnh ngôn ngữ – chất liệu của đời sống dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm đều quen thuộc, gần gũi và lắng đọng rất sâu trong tâm thức người Việt. Bởi vậy khi đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm, người đọc xúc động, đồng cảm khi nhận ra chính mình cũng để nhận ra mỗi người không còn chỉ là của riêng mình nữa : Trong anh và em hôm nay – đều có một phần đất nước, để nhận ra trách nhiệm cứu nước:

Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời.

Sự nhạy cảm và hướng về vẻ đẹp của truyền thống lịch sử, văn hoá đất nước là một biểu hiện độc đáo trong phong cách Nguyễn Khoa Điềm. Trong cảm nhận chung về lịch sử, văn hoá đất nước, chất Huế, văn hoá Huế tạo nên cho thơ NguyễnKhoa Điềm một mảnh hồn riêng. Thơ Nguyễn Khoa Điềm cất lên tiếng nói của người con đất Huế bằng một giọng thiết tha xứ Huế. Dòng sông Hương để lại ấn tượng nao lòng trong tâm hồn bao người về sự mềm mại, thơ mộng nhưng đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm, dòng sông ấy thật hùng vĩ, hoành tráng, uy nghi, gợi nhớ đến câu thơ của Cao Bá Quát :Trường giang như kiếm lập thanh thiên. Đại nội, hoàng thành trầm mặc rêu phong gợi những triều đại vàng son tuy đã lùi vào dĩ vãng, nhưng còn vang vọng tinh thần yêu nước bất khuất của ông cha, còn văng vẳng lời hịch Cần Vương kêu gọi kháng Pháp: Qua hoàng thành cha ông gọi tên tôi ù ù trong họng súng thần công /Hịch Cần Vương tưởng còn vang qua chín cửa .Lịch sử Huế, văn hóa Huế thấm sâu vào tâm hồn Nguyễn Khoa Điềm. Từ nhìn nhận lịch sử, thơ Nguyễn Khoa Điềm trở về với hiện tại của Đất nước và nhân dân trong thời đại chống Mỹ. Trong hơi thở hối hả, dồn dập của thời đại chống Mỹ, Huế đã đứng dậy đem cả lịch sử xuống đường để tranh đấu. Sức trăm năm nay chuyển xuống lòng đường / Cả ngoại ô làm chiến luỹ sông Hương (Đất ngoại ô). Gương mặt cổ kính của Cố đô đã nhường chỗ cho gương mặt thời đại ngập tràn khí thế hào hùng, bởi Trường thành cổ ta làm trường thành trẻ / Sông lặng im ta đổ sóng mặt đường (Mặt đường khát vọng), bởi sức sống bất diệt và mãnh liệt của Huế đang trỗi dậy làm thành phố hồi sinh trên khắp mặt đường.Trong không khí sục sôi của những ngày xuống đường chống Mỹ, sức mạnh của lòng yêu nước không chỉ dâng trào ở thế hệ học sinh, sinh viên mà còn ở mọi tầng lớp: Những người thợ một đời cầm gang sắt / Những mẹ nghèo buôn thúng bán bưng / Những nông dân bị cướp ruộng mất làng / Những tri thức đau một đời chữ nghĩa / Em bé đánh giày, bậc tu hành cứu khổ…Nhân dân còn là những người mẹ, người cha, người em, bạn bè, đồng chí ở mọi nơi, mọi vùng trên chiến trường chống Mỹ.. Nguyễn Duy suy nghĩ về nhân dân qua một “Hơi ấm ổ rơm” hay hình tượng “Tre Việt Nam“, còn Thanh Thảo trong trường ca “Những người đi tới biển” đã viết lên những lời ca xúc động nhất về nhân dân:

Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời

Nhưng có lẽ “Đất nước” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, không chỉ là chiều rộng của không gian địa lí mà nó còn là chiều dọc lịch sử của một nền văn hoá phong phú, lâu đời đầy nhân hậu với cả một truyền thống hào hùng mang bản sắc riêng của dân tộc Việt. Nguyễn Khoa Điềm đã làm sáng lên tư tưởng: Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại. Rõ ràng tư tưởng trên đã thật sự vang lên bằng tiếng nói nghệ thuật của thơ. Tiếng nói ấy rất độc đáo, nó là nốt nhạc ngân vang trong bản hòa điệu của thơ ca chống Mỹ, thể hiện tâm hồn cảm xúc của thi nhân trước vẻ đẹp văn hóa dân tộc. Tư tưởng ấy đến nay còn tươi nguyên bởi giá trị của nó, bởi trách nhiệm “hóa thân cho dáng hình xứ sở” là vấn đề muôn đời của thơ ca và cuộc sống. Đây chính là thành công đáng kể của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm.

2.3.3. Cái tôi trải nghiệm của một thế hệ.

Hòa cùng thế hệ thơ trẻ những năm chống Mỹ, thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn là một giọng điệu riêng. Vẫn nằm trong tinh thần sử thi, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm khác với nhiều nhà thơ cùng thời như Phạm Tiến Duật gắn với Trường Sơn và những cô thanh niên xung phong, Ngô Văn Phú gắn với làng quê, thôn ổ…Người ta nhận ra chân dung Nguyễn Khoa Điềm qua làn sóng đấu tranh dữ dội của học sinh, sinh viên thành thị miền Nam. Cái tôi trữ tình sử thi một mặt ca ngợi đất nước hào hùng trong máu lửa chiến tranh, mặt khác “cái tôi” chuyển hoá sang dạng thức cái tôi thế hệ, để ngợi ca niềm tin, sức sống của khối tuổi trẻ, lòng nhiệt huyết, yêu lý tưởng của họ trong đấu tranh trực diện với kẻ thù:

Ôi những bước tự do chuyển động phố phường
Đại lộ nghiêng đi làm thác đổ
Đội ngũ tiến lên, tiến lên là đội ngũ
Mặt đường là mặt người, mặt đường là thanh niên

Trong những năm chống Mỹ, cái tôi thế hệ từng hiện diện như một chủ thể trữ tình có ý nghĩa nhân danh. Các nhà thơ cùng thời cũng đã khắc hoạ chân dung thế hệ mang tầm vóc một tập hợp lịch sử đứng lên đấu tranh: Thế hệ chúng con đi như gió thổi / Áo quân phục xanh đồng sắc với chân trời (Trần Mạnh Hảo). Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình / (Nhưng tuổi 20 làm sao không tiếc) / Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi Tổ quốc (Thanh Thảo). Cảm thức về thế hệ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa đằm thắm vừa sâu sắc. Mỗi lời thơ như một lời giục giã thiết tha, lời giãi bày chân thực, và là sự khẳng định lý tưởng chắc chắn. Cảm thức về thế hệ trẻ được Nguyễn Khoa Điềm trình bày theo lô gíc của sự trải nghiệm cuộc sống: từ nhận thức về nhân dân đất nước, về gương mặt kẻ thù đến sự tự ý thức và cuối cùng đứng lên tiêu diệt quân thù. Sống vì nhân dân, vì Cách mạng đối với thế hệ trẻ là đi từ cái riêng đến cái chung rộng lớn, dẫn đến hành động tất yếu của họ:

Hãy nâng máu ta lên thành ngọn cờ hồng
Trên cao điểm gian truân mùa giữ nước
Ôi tuổi trẻ có gì cao quý nhất
Bằng hôm nay ta hiến máu xương mình
Những âm thanh như lớp sóng đi vòng
Nghe và nói, và nghe rạo rực
Như nước mắt nhìn vào nước mắt
Như tình yêu nồng cháy với tình yêu.

Bằng việc làm giàu ý nghĩa này, những trí trức trẻ thành phố đã dựng lên những vũ đài chính trị, tập hợp và truyền bá lý tưởng cách mạng đến với quần chúng lao khổ, đấu tranh với kẻ thù bằng sức mạnh trí thức, văn hoá, lẽ phải và chính nghĩa. Phải đổ máu và nước mắt, phải trả giá bằng những lầm lạc ban đầu,phải trải nghiệm qua đấu tranh trực diện với kẻ thù, tuổi trẻ thành thị đã đến được với Mặt đường khát vọng, hòa với nhân dân cùng cả nước lên đường. Có thể nói, Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trẻ gắn với chiến trường nên sự chiếm lĩnh và thể hiện đời sống có sự suy tư trải nghiệm của những người trong cuộc. Cái tôi trữ tình trong thơ có điều kiện tự bộc lộ mình, đại diện cho thế hệ mình – thế hệ những người trẻ tuổi đang tôi luyện trong ngọn lửa chiến tranh, thực sự nếm trải những gian lao thử thách và tự nguyện đem xương máu của mình bảo vệ quê hương, đất nước. Từ cái tôi trữ tình sử thi mang tinh thần thời đại đến cái tôi thế hệ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự biểu hiện khí phách hùng tráng không chỉ của cái tôi nhà thơ mà của cả thế hệ tuổi trẻ cùng lứa: Cái tôi thế hệ xuống đường của tuổi trẻ sinh viên – đó là sự đóng góp độc đáo làm nên phong cách Nguyễn Khoa Điềm.

Là một nhà thơ, một người lính trong “lứa cầm súng suốt một thời trai trẻ” (Nguyễn Duy), “lứa tuổi hai mươi, ba mươi trùng điệp áo lính” (Thanh Thảo), Nguyễn Khoa Điềm có một tâm hồn rất trẻ, xao động biết bao cảm xúc Tình đồng đội, đồng chí là tình cảm gần gũi nhất của những người lính trongnhững năm tháng ở chiến trường. Những đêm Trường Sơn, bao bọc trong bóng tối của rừng đại ngàn, thời gian như ngắn lại khi những người lính quây quần bên bếp lửa. Bên ánh sáng của những ngọn lửa hồn nhiên reo cười nhảy múa, tình đồng đội càng gần gũi và gắn bó. Xích lại gần nhau và chỉ nhìn lửa thôi, nhà thơ chiến sĩ đã thấy tin yêu thắm thiết bởi ở đó : Cháy cùng ý nghĩ / và toả hồng trên mỗi trán say mê. Ngọn lửa hồng trong đêm rừng Trường Sơn đã thắp sáng ngọn lửa lý tưởng trong ý nghĩ, trong tâm hồn người lính. Hơi ấm của bếp lửa rừng xua đi cái âm u của rừng già. Chia sẻ với nhau từ niềm vui, nỗi nhớ đến những điều giản dị – củ sắn, ngọn rau, điếu thuốc, tình đồng đội đã đi qua những năm tháng Trường Sơn:

Bỗng thấy thương nhau hơn khi vai bạn sát vai mình
Bẻ củ sắn chia đôi điều giản dị
Bếp lửa soi một dư vang bền bỉ
Ôi Trường Sơn đốt lửa mấy năm trời

Thơ Nguyễn Khoa Điềm viết trong chiến tranh hình ảnh bạn bè đồng chí rất đỗi thiêng liêng cảm động. Đó cũng chính là sức mạnh của người lính chiến thắng sự bạo tàn của bom đạn kẻ thù hướng về ngày mai tươi sáng. Cái tôi trữ tình trong thơ chiến tranh của Nguyễn Khoa Điềm là sự hội tụ của cái tôi chiến sĩ, cái tôi văn hoá và cái tôi thi sĩ. Đây là những yếu tố nền tảng tạo nên sự đa dạng thức và biến hóa của cái tôi trữ tình trong thơ. Với tư thế cái tôi chiến sĩ, cái tôi trữ tình sử thi cất lên tiếng nói vang vọng của một chân lý vĩnh hằng qua hình tượng người lính; cái tôi trữ tình thế hệ lại mang một tiếng nói riêng của tuổi trẻ miền Nam trong hành trình tìm về dân tộc. Cái tôi văn hóa giúp thơ lấp lánh ánh sáng trí tuệ, tri thức. Đặc biệt cảm hứng văn hóa – lịch sử trước mọi hiện tượng của cuộc sống đã tạo nên vẻ đẹp riêng của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Người đọc còn lưu mãi ấn tượng về một con người thi sĩ đã cảm nhận được những rung động lớn lao của thời đại và cả những rung động thầm kín, riêng tư của lòng người và cuộc đời. Ba yếu tố trên đã tạo nên tính thống nhất trong phong cách và hiện diện trong cả thơ viết sau chiến tranh của Nguyễn Khoa Điềm.

2.3.4 Giọng điệu

Giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng truyền cảm cho người đọc(…) Giọng điệu trong tác phẩm gắn với giọng ” trời phú” của mỗi tác giả, nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị thường đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu

a. Giọng chính luận.

Trong lịch sử dân tộc mỗi khi đất nước có ngoại xâm thì đời sống, số phận mỗi người dân tất yếu phải gắn chặt với vận mệnh của đất nước. Trong hoàn cảnh và khí quyển tinh thần ấy, thơ ca không thể không trở thành tiếng nói chung của cả cộng đồng, phát ngôn cho ý chí, khát vọng, tình cảm lớn lao của toàn dân tộc. Lấy điểm tựa là lịch sử, đất nước, lẽ phải, chính nghĩa, những áng văn chính luận như Cáo bình ngô của Nguyễn Trãi, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã một thời làm quân thù phải kinh hồn bạt vía. Đế quốc Mỹ xâm lược, cả dân tộc lại một lần ra trận và thơ không còn con đường nào khác ngoài con đường “bay theo đường dân tộc đang bay” (Chế Lan Viên). Như vậy thơ ca ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh ít nhiều đều có yếu tố chính luận. Một đặc điểm nổi bật của thơ chống Mỹ là tăng cường tính chính luận, chất suy tưởng triết lý và gia tăng chất liệu hiện thực đời sống. Với đặc điểm này,thơ chống Mỹ đã đáp ứng được yêu cầu của thời đại. “Trong thời đại cách mạng,nội dung chính trị đã thâm nhập và chi phối mạnh mẽ mọi lĩnh vực của đời sống kểcả thơ. Nhằm đề cập và giải đáp những vấn đề mang ý nghĩa chính trị trong cuộcsống, thơ tìm đến khuynh hướng trữ tình chính trị với sự tăng cường yếu tố chínhluận. Bám sát thời sự diễn biến của cuộc chiến đấu, kịp thời đề cập và giải đáp những vấn đề hệ trọng về tư tưởng chính trị, khẳng định đường lối và quyết tâm chiến đấu của dân tộc, lên án kẻ thù trong những âm mưu thủ đoạn và tội ác của chúng…” Nguyễn Khoa Điềm có một trí tuệ sắc sảo, vốn kiến thức sách vở phong phú,sự trải nghiệm qua thử thách chiến tranh và một “tâm hồn thơ trẻ nồng cháy chất lý tưởng”. Với phẩm chất này, giọng điệu chính luận của thơ Nguyễn Khoa Điềm không gượng ép, lên gân,…mà chan hoà đằm thắm trong hình ảnh và ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc, nhiệt huyết và ánh sáng lý tưởng. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đằm sâu và ngân vang trong lòng người đọc là vì thế. Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ có tài đưa đời sống chính trị vào trong thơ một cách tự nhiên. Giọng thơ khách quan lạnh lùng mang khẩu khí trần thuật ngắn gọn nhằm truyền đạt đến người đọc lượng thông tin nhiều nhất, nhanh nhất.

READ:  Cuộc đời và sự nghiệp Nhà thơ tác giả nhà thơ Hữu Thỉnh

Chúng kéo vào hăm bốn xe
Chém mặt đồng ta bốn mươi tám lằn sẹo dọc

(Lửa và máu)

Để phơi bày bộ mặt dã man của kẻ thù, Nguyễn Khoa Điềm liệt kê hàng loạt các tội ác phi nhân tính của chúng: Tao đánh cho mày…/ Tao moi gan mày…/ Tao móc mắt mày…Có cả những trang thơ nhìn xuyên lịch sử nhân loại để tái hiện hàng loạt tội ác man rợ và hiện đại của giặc Mỹ. Từ ngữ được cô đúc lại, tiết kiệm tối đa mang văn phong báo chí, nhưng ẩn sau bề mặt câu chữ là lòng căm thù đang dâng lên mãnh liệt. Khởi nguồn từ những suy nghĩ nung nấu về những vấn đề lớn lao của thời đại, tư duy thơ Nguyễn Khoa Điềm vận động theo mạch lô gíc của quy luật đời sống tất yếu nhằm khẳng định những chân lí lớn lao của thời đại. Đặc điểm này chi phối giọng điệu lập luận và cấu trúc tầng lớp, chương đoạn của thơ Nguyễn Khoa Điềm.Trường ca Mặt đường khát vọng mang chủ đề: Quá trình nhận thức của tuổi trẻ vùng đô thị bị tạm chiếm miền Nam về những biến động thời đại, về kẻ thù, về đất nước, về trách nhiệm của thanh niên để hướng tới Mặt đường khát vọng – con đường cách mạng, con đường chiến đấu mà cả dân tộc đã lựa chọn. Chủ đề lớn này bao trùm toàn bộ tác phẩm được Nguyễn Khoa Điềm triển khai ra 9 chương: Lời chào, Báo động, Giặc Mỹ, Tuổi trẻ không yên, Đất Nước, Áo trắng và mặt đường, Khoảng lớn âm vang, Báo bão. Thế liên hoàn này là tất yếu để chuyển tải một dung lượng lớn của cảm xúc suy nghĩ đang dâng trào. Trong tâm hồn nhà thơ, hình tượng cảm xúc dâng lên tầng tầng, lớp lớp gối nhau như những đợt sóng xô: từ nhận thức về sự trưởng thành của tuổi trẻ, những băn khoăn trăn trở trong việc lựa chọn một hướng đi, lòng căm thù giặc và niềm tự hào về giang sơn đất nước, để đến với hành động đứng lên chiến đấu chống kẻ thù. Dòng cảm xúc cuồn cuộn này đòi hỏi những liên tưởng, những suy nghĩ,nghị luận để biện luận, để phản bác rồi tìm ra thái độ đúng, tin yêu và có trách nhiệm với cuộc đời. Để lí tưởng tiến bộ thấm vào những tâm hồn tuổi trẻ, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa vào thơ một cuộc đối thoại thảo ngay. Giọng thơ chuyển hoá với những lập luận hệ thống, logic, thuyết phục để cảnh tỉnh những tâm hồn lầm đường lạc lối trở về con đường chính nghĩa của nhân dân, đất nước. Chính vì vậy Mặt đường khát vọng không phải là một tác phẩm tuyên truyền chính trị mà nhà thơ đã hóa thân vào tuổi trẻ, đối thoại với tuổi trẻ bằng sự chân tình của lời tâm giao. Âm hưởng của trường ca là chính luận – trữ tình, từ hình tượng lớn đến hình tượng bộ phận đều thấm nhuần lí lẽ và chính lý lẽ đã kết nối các hình tượng với nhau thành một chỉnh thể. Mặt đường khát vọng là trường ca tiêu biểu cho hiện tượng này. Nhập vai tuổi trẻ thành thị miền Nam , cái tôi trữ tình cất lên giọng cật vấn đối thoại dồn dập:

-Những bờ bãi nào không dành cho cò nữa
Những luỹ tre nào bom đã đến khai quang ?

-Có gì đâu chúng con nhìn lên bản đồ Việt Nam
Sao Tổ quốc chỉ còn nửa nước ?

-Sao con học để làm bầy nô lệ
Súng Mỹ hôm nay thành giáo cụ học đường ?

Giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm đặc sắc còn nhờ những suy tưởng. Bởi vậy khi xây dựng hình tượng đất nước, thơ Nguyễn Khoa Điềm mang giọng chính luận trang trọng và hùng tráng:

Ôi Đất Nước đầu mũi dao
Đất Nước đầu mũi tên
Đất Nước đầu bước chân
Đất Nước đầu tiếng chiêng
Đất Nước là ngọn lửa
Đất Nước tràn trên từng đỉnh núi
Đất Nước thiêng liêng…

Sự láy lại và tăng cường điệp từ Đất Nước, cùng với kết cấu thơ dài ngắn làm giọng thơ chất chứa cảm xúc, vừa dồn nén, vừa đồng vọng đánh thức trí tuệ và giục giã tâm hồn người đọc. Hướng về cuộc kháng chiến của toàn dân tộc, thơ không thể thiếu giọng kêu gọi, cổ vũ ngợi ca. Là tiếng nói tình cảm trực tiếp hướng tới đông đảo quần chúng, là bài ca đoàn kết giục giã đấu tranh, giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm kêu gọi tha thiết.

-Hỡi tuổi trẻ như một rừng cây lớn
-Em ơi em đất nước là máu xương của mình.
-Em ơi em/ hãy nhìn rất xa/ vào bốn nghìn năm đất nước
-Mẹ Việt Nam ơi
-Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm
-Anh em ơi/ xuống đường
-Em ơi em, đừng quên, đừng quên

Chọn cho mình vị trí sử thi, ở tầm cao nhất của lịch sử và thời đại thơ Nguyễn Khoa Điềm còn mang giọng quyền uy. Những mệnh lệnh thức xuất hiện dày đặc:

-Hãy đến đây làm người lính trung kiên
-Hãy đứng dậy và giơ cao ngọn đuốc
-Hãy nhận mặt quân thù và xuất kích hôm nay
-Hãy ném trả ngay vào đầu bọn Mỹ
-Hãy cùng chúng tôi đứng lại trước bờ chân lí
-Hãy xuống đường để thấy anh chị em ta
-Hãy nâng máu ta lên làm ngọn cờ hồng
-Hãy cùng chúng tôi sống trọn hiếu trung

Chiến tranh là đổ máu, hy sinh mất mát, nhưng không thể uỷ mị yếu mềm, vì vậy giọng lạc quan, tin tưởng là một cung bậc trong giọng chính luận thơ Nguyễn Khoa Điềm:

-Có bao giờ như buổi sáng xuân nay
Chúng ta bay nghìn độ lửa ta bay

(Đất ngoại ô)

-Một mùa xuân tiếng đại bác rầm rầm
Bản hành khúc những binh đoàn giải phóng

(Con gà đất, cây kèn và khẩu súng)

Trong nền thơ chống Mỹ, chất chính luận đậm nét ở Chế Lan Viên và một số nhà thơ khác. Nguyễn Khoa Điềm như một tiếng ca của cả nền thơ chung và đôi khi người ta nhận ra giọng điệu, phong cách của một hai nhà thơ khác. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm vẫn có những nét riêng trong sự tương đồng trên cấp độ toàn thể của thơ chống Mỹ. Điều đó xuất phát từ chính tâm hồn thi sĩ của một người trong cuộc, một người trên chiến hào, một người trong tâm điểm giông bão của phong trào học sinh, sinh viên miền Nam Bởi thế trong thơ chống Mỹ, thơ Nguyễn Khoa Điềm kết hợp nhiều giọng điệu: sử thi và trữ tình, tráng ca và những phút sâu lắng của suy tư… Chính điều này làm thành một yếu tố độc đáo trong phong cách nhà thơ.

b.Giọng trữ tình.

Bản chất của thơ là giọng trữ tình bởi đó là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc. Khi viết về những vấn đề trọng đại của dân tộc, thơ Nguyễn Khoa Điềm có giọng chính luận cao, vang, thuyết phục nhưng khi viết về những nỗi niềm nhạy cảm của tâm hồn con người: tình yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa, tình đồng đội…,giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm trầm xuống thiết tha sâu lắng. Tình yêu quê hương đất nước là một chủ đề có tính sử thi nhưng đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm đã được “đời tư hoá”. Chương Đất Nước (Mặt đường khát vọng) Nguyễn Khoa Điềm thể hiện những điều tâm huyết nhất về đất nước nhưng trong hình thức lời tâm tình của một đôi trai gái. Khi lứa đôi bên nhau thường tâm sự những điều riêng tư thầm kín nhưng chàng trai – nhân vật trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm đã nói với người yêu về đất nước với giọng thương yêu tha thiết:

-Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
-Em ơi em / hãy nhìn xa / vào bốn nghìn năm đất nước
-Rồi mai này con ta đi xa…

Giọng thơ trữ tình đằm thắm này đã làm trái tim người đọc xúc động và đồng cảm với cảm xúc của nhà thơ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm bắt rễ rất sâu vào mảnh đất văn hoá dân gian nên lời ru cũng thành giọng điệu. Tiếng ru ấy vừa là hiện thân của sự nâng niu, trân trọng, vỗ về, vừa là cách nói gián tiếp, xa xôi với người khác, lại vừa như nói với chính mình:

-Ngủ ngoan AKay ơi, ngủ ngoan AKay hỡi
Mẹ thương AKay, mẹ thương bộ đội

(Khúc hát ru những em bé lớn lên trên lưng mẹ)

Giọng thơ dịu dàng, thủ thỉ tâm tình như tấm lòng người mẹ. Mạch cảm xúc trữ tình vận động tạo thành một cốt truyện ngầm xâu chuỗi các sự kiện và nhân vật làm cho tác phẩm trở nên thống nhất. Điều này làm cho giọng trữ tình chuyển hoá linh hoạt với những cung bậc cảm xúc khác nhau: tâm trạng xao xuyến, bồi hồi, khi tạm biệt tuổi thơ để bước vào cuộc đời đầy thử thách: Ta lớn lên bối rối một sắc hồng / Phượng cứ nở hoài như đếm tuổi…; lòng căm thù giặc khi bùng lên mãnh liệt: Ta căm giận chúng mày ngàn đời giặc Mỹ, khi lắng lại sâu thẳm thành nỗi đau nhói buốt tâm hồn: Mỗi nỗi đau từ vô tận vô cùng / Ùa vào mỗi căn nhà góc phố; tình yêu đất nước, yêu dân tộc tha thiết đến nghẹn ngào: Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình / Ta nghẹn ngào Đất Nước Việt Nam ơi. Khi tuổi trẻ miền Nam xuống đường đấu tranh, giọng thơ trữ tình đã bắt nhịp vào không khí thời đại trở nên hào hùng, khí thế, cuồn cuộn sức mạnh phong ba nhấn chìm kẻ thù:

Ta vụt lớn lên trong nhịp bước tuần hành
Ngực trải rộng chứa cả tầm biểu ngữ
Trường thành cổ, ta làm trường thành trẻ
Sông lặng im, ta đổ sóng mặt đường

Như vậy giọng điệu trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ khởi phát từ trái tim giàu cảm xúc, sống hết mình với thời đại mà còn được chắt lọc từ văn hoá dân gian, văn hoá Huế nên vừa chân thật nồng nàn, vừa phóng khoáng bay bổng vừa đằm sâu và đậm đà bản sắc dân tộc. Chính luận, trữ tình, triết lí là ba cung bậc nổi bật của giọng điệu thơ Nguyễn Khoa Điềm. Không đứng riêng độc lập mà ba giọng điệu trên hoà quyện với nhau nhuần nhị. Trí tuệ trong thơ không hiện ra mệnh lệnh khô khan mà hoá thân vào hình ảnh ngôn ngữ thơ thấm đẫm cảm xúc từ những rung động về cuộc sống. Gọi phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là chính luận – trữ tình là vì thế.

2.3.5.Vận dụng nhuần nhuyễn chất liệu văn hoá dân tộc.

Vì sao Nguyễn Khoa Điềm sử dụng chất liệu văn hoá, văn học dân gian để thể hiện tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”?

– Văn học dân gian nói chung, ca dao thần thoại nói riêng chính là linh hồn dân tộc. Có thể nói đây là bộ phận văn học trong sáng, giàu sức sống nhất và cũng biểu hiện rõ nhất sắc điệu, vẻ đẹp tâm hồn dân tộc và không ai khác chính nhân dân là tác giả cùa nền văn học dân gian dồi dào sáng tạo ấy. VHDG là cội nguồn của văn học viết có ảnh hưởng lớn đến thơ ca Việt Nam hiện đại.

– Với những xúc động chân thành mãnh liệt của một hồn thơ nảy nở từ nguồn sữa dân gian dạt dào, với sự cảm hiểu sâu sắc của một người lính đang trực tiếp trải nghiệm trong cuộc đấu tranh sôi nổi, quyết liệt của nhân dân dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, Nguyễn Khoa Điềm tìm về với cội nguồn văn học dân gian, đặc biệt là “ca dao, thần thoại” để làm bật lên tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Kết cấu đoạn trích hướng vào trả lời câu hỏi: Đất nước là gì? Đất nước của ai? Vai trò của nhân dân với đất nước ra sao? Chất “tư duy lôgic, yếu tố chính luận” ấy dễ làm thơ mất đi chất “tươi xanh nhựa sống”, nhưng không! Viết về đất nước, về một nguồn mạch cảm hứng lớn của thi ca nói chung và thơ cách mạng nói riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã chiết xuất chất liệu văn hóa, văn học dân gian đưa vào thơ, không chỉ tác động vào nhận thức mà còn có sức lay động tình cảm sâu xa đối với tâm hồn người đọc. Chính cách sử dụng sáng tạo này đã tạo sắc điệu thẩm mĩ và không khí riêng cho đoạn thơ.

– Chất liệu văn học dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm được sử dung vô cùng sáng tạo. Dân tộc ta có một nền văn học dân gian phong phú và có truyền thống lâu đời. Nền văn học ấy thể hiện sức sống, kinh nghiệm đấu tranh xã hội và tự nhiên, thể hiện trí tuệ thông minh và những những ứng xử tốt đẹp của nhân dân lao động qua hàng ngàn năm lịch sử. Khai thác được tất cả năng lực biểu hiện và vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca dân tộc để biểu hiện hiện thực phong phú của đời sống, đó là cơ sở chủ yếu tạo nên tính dân tộc trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Trong chương Đất nước, Ngôn ngữ thơ được sử dụng từ chất liệu văn học dân gian với tần số lớn. Tuy nhiên chất liệu văn học dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không còn trong chính dạng bản thân của nó, một sự sao chép sản phẩm cộng đồng mà nó đã được chuyển hóa vào lời chữ, giọng điệu, cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ tạo nên bản sắc riêng trong thơ ông. Chúng ta có một kho tàng ca dao tục ngữ đậm đà phong vị trữ tình, kết tinh những tình cảm cao quý của nhân dân, những kinh nghiệm lao động sản xuất và đấu tranh. Ca dao tục ngữ đã thấm vào Nguyễn Khoa Điềm một cách tự nhiên trong cách nhìn nhận về “Đất nước”- một đất nước giàu truyền thống văn hóa. Dấu tích của ca dao tục ngữ liên tục được triển khai trong mỗi câu thơ. “Tay nâng chén muối đĩa gừng / Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Lời ca dao xưa đã chuyển hóa nhuần nhị trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn, Đất nước là một cái gì đó không hề trừu tượng mà trái lại rất gần gũi như hơi thở cuộc sống, gắn liền với những câu ca dao, dân ca duyên dáng ý nhị: Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.Câu thơ trên gợi nhớ bài ca dao “Khăn thương nhớ ai”. Không chỉ thế, những câu ca dao ca ngợi tình nghĩa giữa con người: “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng” được nhà thơ khai thác và thể hiện trong những dòng thơ:

Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội.

Những câu chuyện cổ tích như Tấm Cám, Cây Khế, truyện Trạng Quỳnh là những câu chuyện dân gian mà người Việt Nam ai cũng biết đã trở thành chất liệu và chuyển hóa thành thơ:

Đánh lừa thuồng luồng xăm mình xăm mặt
Đánh lừa thằng giặc là truyện Trạng Quỳnh…
Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu
Cây khế chua có đại bàng đến đậu
Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta

Lịch sử đất nước đã ghi nhận nhiều sự “hóa thân cho dáng hình xứ sở”. Nhiều gương dựng nước và giữ nước đã trở thành truyền thuyết, tạo một trường văn hóa đặc sắc cho dân tộc Việt: Những đá Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những ao đầm của chân ngựa Thánh Gióng, con Rồng, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… Sự pha trộn giữa các yếu tố vật chất với các giá trị văn hóa tinh thần đã khiến cho những câu thơ giản dị mang vẻ đẹp lấp lánh. Nguyễn Khoa Điềm đã biết khai thác chất liệu văn học dân gian ở những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết có tác dụng như việc sử dụng các điển tích, điển cố văn học nhằm làm cho ngôn ngữ thơ thêm cô đọng, hàm súc, tạo nên màu sắc dân gian rất riêng trong thơ ông. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, thơ ca phải nhằm động viên mọi người chiến đấu. Nhà thơ đã chọ cho mình một con đường đi riêng khi chọn chất liệu từ đời sống dân gian, một đời sống vốn gắn bó thân thiết với tất cả người Việt Nam, để thể hiện một hình ảnh Đất nước gần gũi và giản dị nhất. Cha ông ta bằng sự giản dị đã làm nên Đất nước vẹn toàn, đẹp đẽ, với một tinh thần dân tộc cao cảvà khát vọng duy trì bản sắc dân tộc, “truyền giọng điệu cho con mình tập nói”,“gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”,cha ông đã truyền lại cho chúng ta truyền thống văn hóa như ngày hôm nay. Nguyễn Khoa Điềm lựa chọn hướng sáng tác trên trong hoàn cảnh chiến tranh cũng nhằm đánh thức bổn phận đó trong thanh niên đô thị miền Nam .

Tiếp thu sáng tạo sử thi dân gian: “Trường ca là một tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình” .Trường ca là một hiện tượng tiêu biểu của thời đại mang tính sử thi. Chất “sử thi” trong trường ca chính là sự kế thừa của thể loại sử thi dân gian. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “sử thi (còn gọi là anh hùng ca) là thể loại tự sự xuất hiện rất sớm trong lịch văn học các dân tộc nhằm ca ngợi sự nghiệp các anh hùng có ý nghĩa toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc trong buổi bình minh lịch sử. Về kết cấu sử thi là một câu chuyện được kể đầu đuôi với quy mô lớn vì theo Heghen:“nội dung và hình thức của nó thực sự là toàn bộ các quan niệm, toàn bộ thế vàcuộc sống của một dân tộc được trình bày dưới hình thức khách quan của một biến cố thực tại”.Cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc ta đã làm nảy sinh biết bao bản trường ca: Bài ca chim Chơ Rao – Thu Bồn; Ngọn giáo búp đa – Ngô Văn Phú; Những người đi tới biển – Thanh Thảo; Đường tới thành phố – Hữu Thỉnh… Hơn bất cứ thể loại nào, trường ca với đặc trưng ưu thế của nó đã có mặt ở những nơi đầu sóng ngọn gió để kịp thời phản ánh những biến động lịch sử, để ngợi ca cuộc chiến đấu đầy khí phách anh hùng của dân tộc ta. Hòa cùng không khí đó, trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm ra đời năm 1971 xuất bản 1974 đã được đông đảo bạn đọc tiếp nhận. Trường ca Mặt đường khát vọng cũng như trường ca thời kì kháng chiến chống Mỹ là trường ca trữ tình bởi nó tái hiện đời sống trong tính chủ quan của nhà thơ và thế giới nghệ thuật cũng được tổ chức theo nguyên tắc này. Đây là nét mới mẻ của trường ca thời kì chống Mỹ khác với trường ca sử thi, trường ca tự sự trước đó. Mặt khác còn bị chi phối bởi những yêu cầu của một thể loại có kết cấu dài hơi, nên nó phải chú ý đến việc xây dựng nhân vật và tuyến sự kiện. Điều này cũng tương ứng với lối triển khai của sử thi dân gian. Để có tuyến sự kiện trước hết người ta cần tìm đến với cốt truyện. Ở trường ca cốt truyện không nhất thiết phải có nhiều tình tiết và hành động mà cốt chỉ tạo ra một tình huống thống nhất cho tác phẩm. Trong quá trình vận động của thể loại trường ca thì càng về sau tuyến sự kiện càng có xu hướng lỏng lẻo. Tuy vậy chúng vẫn đóng vai trò quan trọng trong kết cấu. Tuyến sự kiện ở trường ca Mặt đường khát vọng có vai trò quan trọng. Ở mỗi chương của trường ca, hệ thống chi tiết sự kiện được huy động một cách hiệu quả . Ở trường ca, tuyến sự kiện bao giờ cũng gắn với một hệ thống nhân vật. Tuy nhiên trường ca không miêu tả nhân vật với tính cách và hành động của nhân vật như trong truyện hoặc tiểu thuyết. Trường ca chỉ chú ý tới các nhân vật có những chi tiết và hành động chứa đựng chất thơ của hiện thực. Có nhiều tuyến nhân vật trong trường ca Mặt đường khát vọng. Đó là nhân vật tập thể trong quá trình nhậnthức và đấu tranh dành độc lập, nhân vật “anh”, “em” trữ tình đằm thắm trong chương “Đất nước” và đặc biệt là nhân vật xưng “ta”, “tôi”. Khác với thơ trữ tình, nhân vật ở ngôi thứ nhất này ở trường ca không trình bày cảm xúc của mình một cách tự do bởi nó bị chi phối bởi tuyến sự kiện. Một mặt nó không xuất hiện với tư cách cá nhân mà với tư cách là người đại diện cho thế hệ, cho lớp người, cho cộng đồng, cho dân tộc. Mặt khác, nó còn thể hiện chức năng thể loại là người dẫn chuyện, người gợi ý mách bảo, người cung cấp thông tin, người điều tiết phân bố và liên kết các sự kiện lại thành chỉnh thể. Nhân vật ở ngôi thứ nhất ấy cũng có thể là chính nhà thơ tham gia, tác động vào kết cấu tác phẩm với tư cách là nhân vật tâm trạng và nhân vật hành động. Nhờ vậy mà nhịp điệu phát triển của trường ca sôi nổi,khẩn trương, hào hứng. Ở trường ca này tác giả đã hoà mình vào không khí tác phẩm, sống với những chi tiết sự việc và suy nghĩ hành động bằng chính con người trong tác phẩm. Văn học kháng chiến đã khẳng định trường ca như một thể loại mới tiêu biểu, đặc trưng của văn học giai đoạn này. Trường ca Mặt đường khát vọng tuy phát triển từ thơ trữ tình nhưng nó ảnh hưởng rất rõ nét của sử thi dân gian về dung lượng, tính chất anh hùng ca chủ đạo, sự kiện dồi dào, nhân vật đại diện cho tập thể. Nguyễn Khoa Điềm đã biết kế thừa phát triển cái đã có để phù hợp với hiện thực và thẩm mỹ thời đại. Nhờ sự bộc lộ đậm nét cái chủ quan và khả năng biểu hiện mang màu sắc riêng mà trường ca của Nguyễn Khoa Điềm có những nét mới lạ so với bất cứ một trường ca nào khác cùng thời.

3. Kết luận

Thơ ca phải thực sự dựa vào sự giàu có của tâm hồn, bản lĩnh cá nhân. Nguyễn Khoa Điềm đã từng bày tỏ những suy nghĩ về thơ: “Một cách nhìn cuộc sống đúng hướng và tin yêu lạc quan, một tâm hồn giàu cảm xúc để đồng cảm, một trí tưởng tượng phong phú luôn luôn mới mẻ sáng tạo là những nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với một tâm hồn thơ. Khi những năng lực tinh thần ấy lại gắn bó với một cuộc đời thực có nhiều mối liên hệ xã hội phong phú luôn được bối đắp từ cuộc sống xung quanh, đấy là điều kiện để xuất hiện một tài năng thơ” Soi chiếu ý kiến trên vào đường đời và đường thơ của Nguyễn Khoa Điềm, có thể khẳng định một điều: Nguyễn Khoa Điềm là một tài năng thơ thực sự. Một tài năng bao giờ cũng đi liền với một phong cách sáng tạo. Ở thời kì chiến tranh, sống trực tiếp giữa lòng cuộc chiến đấu của nhân dân. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cảm động những xúc cảm và ý thức về dân tộc, thời đại trong tâm hồn những con người yêu nước. Thời đại chống Mỹ đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm không phải bằng sự miêu tả trực tiếp mà khúc xạ qua nhận thức và trải nghiệm máu thịt của riêng nhà thơ nên đã được nâng lên tầm cao và chiều sâu riêng. Để khẳng định chân lí vĩnh hằng của dân tộc: lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí chiến đấu bất khuất… Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng linh hoạt trong thơ sự sắc sảo của một trí tuệ ưa khái quát triết lý, vốn kiến thức phong phú về lịch sử – văn hóa và sự trải nghiệm của bản thân. Bởi vậy, vừa hòa chung với tiếng thơ chống Mỹ của cả nước, của thế hệ trẻ, thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn có một phong cách riêng.

Trên con đường thơ của mình, thơ Nguyễn Khoa Điềm luôn có những biến đổi mới mẻ phù hợp với từng hoàn cảnh sáng tác. Trong chiến tranh, tâm hồn Nguyễn Khoa Điềm cháy bỏng những cảm hứng lớn lao về Nhân dân – Đất nước. Là một nhà thơ trẻ tự nguyện nhập cuộc và được thử thách trong chiến tranh, thơ Nguyễn Khoa Điềm cất lên tiếng nói của thế hệ mình về ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước.“Thơ là một cách chuyền lửa cho muôn đời sau” (Chế Lan Viên). Không sáng rực, chói lọi nhưng ngọn lửa trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự ấm áp của những tình cảm đẹp về đất nước và con người đã sưởi ấm cho cả một thế hệ thời ấy và có lẽ cả những thế hệ mai sau. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, ẩn sau bề mặt câu chữ là một gương mặt thi sĩ, một chân dung tâm hồn giàu cảm xúc, nhạy cảm với những vang động lớn lao cuả thời đại và những rung động tinh tế của lòng người. Những rung động này đã tạo nên chất thơ sâu lắng nồng nàn, tạo nên sự đồng cảm giữa những tâm hồn, giữa tác giả và độc giả, như một nét phong cách định hình rất sớm và ngày càng rõ nét của thơ Nguyễn Khoa Điềm.