I. GỢI DẪN
1. Ca dao là thể loại trữ tình dân gian kết hợp lời và nhạc, diễn tả tình cảm, tâm trạng của một số kiểu nhân vật trữ tình như người mẹ, người vợ, người con,… trong quan hệ gia đình ; chàng trai, cô gái trong quan hệ tình bạn, tình yêu ; người phụ nữ, người dân thường,… trong quan hệ xã hội.
Ca dao ngắn gọn, hàm súc, thường sử dụng các thể thơ như : lục bát, lục bát biến thể, song thất lục bát, vãn bốn (câu thơ bốn tiếng), vãn năm (câu thơ năm tiếng). Ca dao rất giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ và biểu tượng truyền thống, ngôn ngữ gần gũi với cuộc sống của người bình dân. Các hình thức lặp lại phổ biến trong ca dao : lặp kết cấu, lặp hình ảnh, lặp dòng, lặp từ ngữ.
Ca dao là một dạng thơ trữ tình – trò chuyện, nên khi đọc cần tìm hiểu bài ca dao ấy là lời của ai tâm sự với ai, tâm sự ấy là gì và được thể hiện như thế nào.
2. Dựa theo nội dung tình cảm bao trùm thể hiện trong các bài ca dao, có thể đặt tên cho từng nhóm :
– Nhóm 1 (gồm các bài 1, 2, 3) : Ước mong gặp gỡ, yêu thương.
– Nhóm 2 (bài 4) : Nỗi niềm mong nhớ người yêu của cô gái.
– Nhóm 3 (bài 5, 6) : Nghĩa tình người ở – người đi.
3. Cách đọc
Trên cơ sở nội dung đã xác định trên, cần đọc giọng nhẹ nhàng, tình cảm, thể hiện các sắc thái biểu cảm của nhân dân trong tình yêu lứa đôi và tình yêu đối với quê hương đất nước.
Tham khảo: Ca dao than thân và ca dao yêu thương, tình nghĩa // Ca dao than thân
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Về các bài ca dao Nhóm 1
(1) Cô kia đứng ở bên sông,…
(2) Ước gì sông rộng một gang,…
(3) Ước gì anh hoá ra gương,…
Thế giới nghệ thuật ca dao là thế giới trữ tình đằm thắm. Đó cũng là thế giới của những hình ảnh hàm chứa nghĩa tình mộc mạc, chân thành mà tha thiết, đắm say. Có thể thấy trong các bài ca dao loại này những hình ảnh tượng trưng đặc sắc : chiếc cầu – cành hồng, sông rộng một gang, chiếc cầu – dải yếm. Đây đều là những hình ảnh tượng trưng, bởi thế mà các bài ca dao trở nên gợi cảm, hàm chứa tình ý, ngụ ý tinh tế. Hình ảnh ấy là hình ảnh của tưởng tượng ước ao, của tình cảm đôi lứa nồng nàn. Chuyện tỏ tình, ngỏ ý nhờ vậy mà trở nên mềm mại, tế nhị, kín đáo. Hình ảnh chiếc cầu – cành hồng có chút tinh nghịch song vẫn tinh tế, dịu dàng, bộc lộ vừa đủ tình cảm của chàng trai. Hình ảnh chiếc cầu – dải yếm thì vừa táo bạo, mạnh mẽ lại vừa nền nã, đằm thắm, đầy nữ tính.
Và còn là những gương soi, cơi, cau tươi, trầu vàng. Khác với các hình ảnh trên là ước muốn gửi gắm vào sự vật ẩn dụ, ở đây, nhân vật trữ tình thể hiện ước muốn hoá thân. Ước mình là gương để được gần gụi người yêu, hơn thế, còn để hoà vào thành một, lồng vào nhau. Hình ảnh cơi, cau tươi, trầu vàng thể hiện ước nguyện kết duyên và ý thức nâng niu, giữ gìn hạnh phúc lứa đôi của chàng trai.
Có thể nói: đây là những bài ca dao nói lên ước mong gặp gỡ, yêu thương của những chàng trai, cô gái. Bài (1), (3) là lời chàng trai nói với cô gái, bài (2) là lời cô gái nói với chàng trai. Tất cả đều diễn tả ước muốn trong tình bạn, tình yêu của các chàng trai và cô gái, với hình ảnh con sông, chiếc cầu giàu sức gợi.
2. Về bài ca dao Nhóm 2 : Khăn thương nhớ ai…
Tràn ngập trong bài ca dao này là nỗi niềm mong nhớ người yêu đến nghẹn ngào của cô gái.
Tác giả dân gian sử dụng những hình ảnh cụ thể để gợi tả về nhân vật trữ tình cùng trạng thái tình cảm mong nhớ : từ khăn, qua đèn, đến mắt. Các hình ảnh khăn thương nhớ, đèn thương nhớ, mắt thương nhớ được xây dựng theo biện pháp nhân hoá, hoán dụ. Nói khăn, nói đèn, nói mắt là để nói trạng thái bồn chồn, khắc khoải mong nhớ của cô gái. Tác giả dân gian đã dùng cái cụ thể, cái hình thức bên ngoài để gợi tả cái tiềm ẩn bên trong tâm hồn con người. Những hình ảnh này xuất hiện cùng với thủ pháp lặp lại (lặp hình ảnh, từ ngữ, câu, nhịp điệu) đã khắc hoạ sâu sắc, sinh động trạng thái cảm xúc yêu thương, tâm trạng nhớ nhung, hoài mong của cô gái, đặc biệt là sự lặp lại “Khăn thương nhớ ai”, “Khăn rơi…”, “Khăn vắt…”, “Khăn chùi…”. Hiện ra trước mắt người nghe một cô gái “đứng ngồi không yên”, “ra ngẩn vào ngơ”, chong đèn thao thức.
Các câu hỏi tu từ “Khăn thương nhớ ai”, “Đèn thương nhớ ai”, “Mắt thương nhớ ai” tạo ra giọng điệu tự vấn, mở ngỏ sự im lặng nao lòng. Hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi mắt cũng chính là hỏi chính mình. Nỗi mong nhớ được thể hiện với chiều thẳm sâu của tâm hồn người phụ nữ đa cảm. Vẻ âm thầm, lặng lẽ có phần gắng gỏi càng cho thấy tình yêu và nỗi nhớ nơi cô gái hết sức mãnh liệt.
Nhân vật trữ tình trong bài ca dao này là cô gái với nỗi niềm mong nhớ người yêu, mong nhớ khôn nguôi đến mức âu sầu, phiền muộn. Nỗi niềm nhớ mong ấy được giãi bày trực tiếp ở hai câu lục bát cuối bài. Câu ca như một tiếng thở dài khắc khoải.
3. Về các bài ca dao trong Nhóm 3
(5) Cây đa cũ, bến đò xưa,…
(6) Trăm năm đành lỗi hẹn hò,…
Nghĩa tình kẻ ở – người đi, đó là nội dung chủ đạo trong các bài ca dao thuộc nhóm này.
Mượn hình ảnh cây đa, bến nước, con đò để diễn tả tình nghĩa con người, tác giả dân gian đã dùng những hình ảnh gắn với không gian quen thuộc của làng quê Việt Nam, nơi diễn ra biết bao chuyện vui buồn : nơi gặp gỡ, hẹn hò, chia tay, đoàn tụ,… Một không gian đầy những kỉ niệm sâu sắc ; hơn nữa, đó cũng là những hình ảnh có mối liên hệ với nhau, gắn bó với nhau trong thực tế và đã trở thành những biểu tượng, mang tính ẩn dụ, đa nghĩa.
Trong hai bài ca dao này, cây đa và bến đò là cái cố định, biểu trưng cho người ở lại, người chờ đợi còn khách bộ hành, con đò là cái dời chuyển, biểu trưng cho kẻ ra đi. Bài (6), nói đến cây đa, bến cũ, con đò – kẻ ở, người đi là để nói về nghịch cảnh nhỡ nhàng, lời trữ tình có chút hờn giận, trách móc trong tiếc nuối, ngậm ngùi. Một bài thì cái tình và cái nghĩa luôn gắn bó, là cơ sở tạo nên sự bền vững của lòng chung thuỷ. Một bài thì cái nghĩa không còn mà cái tình vẫn đậm đà. Tuy nhiên, dù ở tình cảnh nào, cái mà nhân dân ta hướng tới là sự gắn bó, đủ đầy cả tình và nghĩa.
Chia li và khát mong đoàn tụ là đề tài muôn thuở trong thơ văn. ở đây, tình nghĩa giữa kẻ ở và người đi được thể hiện đậm chất dân gian : giản dị, tự nhiên mà hàm súc trong những hình ảnh vừa quen thuộc vừa mới mẻ, gợi cảm.
4. Về bài : Muối ba năm muối đang còn mặn,…
Bài ca dao này sử dụng biện pháp rất quen thuộc của văn học dân gian là mượn những thuộc tính của các sự vật trong tự nhiên để nói về cuộc sống, về tình cảm con người.
Mặn là thuộc tính tự nhiên của muối, cay là thuộc tính của gừng, và cả hai vị ấy đều rất nồng nàn. Đó là những điều không thể đổi thay. Mượn tính chất không đổi thay ấy để nói về lòng thuỷ chung của con người là thủ pháp nghệ thuật của bài ca dao này. Vì thế bài ca dao được mở đầu :
Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng, gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi chăng nữa thì ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.
Bài ca dao vừa là lời thề nguyền, vừa là khát vọng thuỷ chung. Đã có nhiều câu ca thể hiện khát vọng ấy của nhân dân như :
Rủ nhau xuống biển mò cua
Mang về hái quả mơ chua trong rừng
Ai ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Bài ca dao đề cao tình nghĩa thuỷ chung trước sau như một. Lời thề nguyền chung thuỷ được thể hiện ở câu thơ cuối cùng. Trong Tiễn dặn người yêu, chàng trai dặn người yêu :
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già
Họ thề sẽ thuỷ chung đến trọn đời. Cũng lời thề nguyền ấy, nhân vật trữ tình trong bài ca dao này lại có cách nói khác. Mở đầu bằng môtíp gừng cay muối mặn để rồi khẳng định tình nghĩa bền chặt của mình.
Ba vạn sáu ngàn ngày là một trăm năm, đó là một cuộc đời. Khẳng định không bao giờ xa nhau bằng hình thức nói ngược “có xa nhau đi chăng nữa…”.
Bài ca đã góp thêm một tiếng nói ngợi ca tình nghĩa thuỷ chung của người dân lao động. Tình cảm của con người vốn dễ đổi thay nên khát vọng ấy là khát vọng muôn đời của con người. Tình có thể đổi nhưng nghĩa không thể thay. Vì thế, tình và nghĩa luôn gắn liền với nhau trong quan niệm của người Việt Nam. “Nghĩa nặng tình dày” như gừng cay muối mặn, muôn đời vẫn mặn nồng như thế.
Vượt lên mọi huỷ hoại của thời gian, không gian ca dao vẫn sống và tiếp tục sống để làm say đắm lòng người, bởi ca dao là những tâm tình, ước vọng chân thành nhất của người dân lao động.
III. LIÊN HỆ
Có thể kể thêm một số bài ca dao với hình thức tương đồng :
– Ước gì cho bắc hợp đông
Cho chim loan phượng ngô đồng sánh đôi.
– Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
– Anh đi đường ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh.
– Cây đa bến cũ lở rồi
Đò đưa bến khác, bạn ngồi chờ ai ?