Cho biết những thành công, hạn chế và giải pháp của Việt Nam trong thu hút FDI từ Nhật Bản?

Nhật Bản hiện là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam, là nước cấp ODA nhiều nhất cho VIệt Nam, đồng thời Nhật Bản đã đứng vị trí thứ tư về FDI tại Việt nam; Do vậy khả năng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam sẽ lớn hơn trong thời gian tới…

Những thành công và hạn chế của VN thu hút FDI từ Nhật Bản:

Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Quá trình đổi mới toàn diện này bắt đầu từ năm 1986 đã làm cho nền kinh tế thay đổi một cách cơ bản. Những thành tựu đạt đc mới là bước đầu nhưng rất quan trọng nó là sự mở đầu tốt đẹp cho một quá trình cải cách và xây dựng đất nước lâu dài để có thể bắt kịp với nền kinh tế chung của khu vực thế giới.

Những khó khăn trong quá trình đổi mới sẽ không thể vượt qua đc nếu chỉ dựa vào nỗ lực của bản thân, quan trọng là nhân tố hợp tác và viện trợ quốc tế

– Tích cực: đầu tư FDI từ Nhật Bản đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng đi vào ổn định và phát triển kinh tế, đóng góp đáng kể vào sự thành công của công cuộc đổi mới. Nó cung cấp cho thị trường một lượng hàng hóa lớn nhất là những hàng hóa thay thế nhập khẩu như xi măng, sắt thép, điện tử, điện dân dụng, hàng tiêu dùng…góp phần bình ổn cung cầu và giá cả thị trường, đầu tư trực tiếp của NB chủ yếu đầu tư vào khu vực công nghiệp, dầu khí, dịch vụ, khách sạn, góp phần nâng cao tỷ trọng của các khu vực này trong nền kinh tế. Đặc biệt nhờ có đầu tư trực tiếp của NB, nhiều ngành mũi nhọn của nền kinh tế đã xuất hiện như thăm dò, khai thác dầu khĩ, sả xuất lắp ráp ô tô, xe máy… đầu tư trực tiếp của NB đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế.

Nhiều công nghệ mới đã đc nhập vào nc ta nwh chế tạo máy và sản phẩm cơ khí điều khiển theo chương trình, dây chuyền trự động lắp ráp hàng điện tử, mạch điện tử. Nhìn chung phần lớn các trang thiết bị đã có trong nc là thuộc loại phổ cập ở các nc công nghiệp trong khu vực. Hoạt động chuyển giao công nghệ đã tạo ra nhiều sản phẩm tốt, kiểu dáng đẹp chất lượng đều đạt tiêu chuẩn VN. Đầu tư trực tiếp của NB không chỉ góp phần phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất mà còn hình thành quan hệ sản xuất mới: đó là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn. Sự xuất hiện này đã thúc đẩy sự họp tác nâng cao sức cạnh tranh của các thành phần kinh tế. Nó còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực, nâng cao sức mua trong nước, cải thiện mức sống của người lao động, lương trung bình cao hơn 30% đến 50% so với công nhân trong các lĩnh vực không có đầu tư, tạo cho lao động Vn có điều kiện đc nâng cao tay nghề, mức sống, tiếp cận với kỹ năng,công nghệ và quản lý tiến tiến rèn luyện về kỷ luật và tác phong lao động công nghiệp. Đầu tư trực tiếp nc ngoài của NB làm tăng thêm nguồn thu từ xuất khẩu các mặt hàng điện tử, nông lâm sản

Bên cạnh đó còn có một số hạn chế của đầu tư trực tiếp của nhật bản vào Vn như về công tác quy hoạch còn nhiều yếu kém, nhiều ngành công nghiệp do quy hoạch chậm và dự án chưa chính xác nên đã cấp nhiều dự án đầu tư trực tiếp làm cho công suất khai thác đạt mức thấp so với công suất thiết kế(như các dự án láp ráp ô tô, xe máy) gây ảnh hưởng sản xuất trong nc. Cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý như tập trung quá nhiều vào các ngành công nghiệp trong khi đầu tư trong lĩnh vực nông lâm nghiệp thủy sản còn quá ít so với như cầu và tiềm năng phát triển. Thị trường và dịch vụ tài chính ngần hàng còn chưa thực sự mở đối với đầu tư trực tiếp của NB

– Giải pháp:

(1) Nhận thức đúng vai trò và định hướng rõ ràng vấn đề thu hút FDI từ Nhật Bản

Trong bối cảnh của thế giới hiện nay và trong quan hệ của Việt Nam, với các nước lớn, FDI của Nhật Bản vẫn đóng vai trò quan trọng đối với các nước Châu á, đặc biệt đối với các nước ASEAN. Việt Nam là thành viên của tổ chức các nước ASEAN nên là một trong những địa bàn đầu tư của Nhật Bản. Quan hệ giữa Việt Nam và nhật Bản đang không ngừng phát triển. Nhật bản đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong khu vực Châu á- Thái Bình Dương và ủng hộ Việt Nam gia nhập ASEAN và WTO. ” Việt Nam là thành viên mới của ASEAN. Hiện nay trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, mặc dù quá trình đàm phán mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu. Nhật Bản hoan nghênh các nền kinh tế chưa phải làthành viên WTO gia nhập tổ chức này.

Nhật Bản hiện là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam, là nước cấp ODA nhiều nhất cho VIệt Nam, đồng thời Nhật Bản đã đứng vị trí thứ tư về FDI tại Việt nam; Do vậy khả năng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam sẽ lớn hơn trong thời gian tới.

Để đẩy nhanh hơn nữa vấn đề thu hút FDI đặc biệt là JDI, chúng ta cần tham khảo kinh ngiệm của các nước như Malaixia, Thái Lan, Singapore, Inđonêxia, Philipin kể cả mặt thành công và thất bại.

Các nước này, họ rất coi trọng JDI, coi đó là yếu tố hữu cơ trong phát triển kinh tế. Và thực tế đã chứng minh rõ ràng nếu như không có FDI nói chung và JDI nói riêng thì các nước ASEAN 5 không thể có sự phát triển như ngày nay. Nhật Bản có lợi thế là gần các nước ASEAN so với mỹ và EU, lợi ích gắn chặt với các nước ASEAN. Bộ ngoại giao Nhật bản đã phát hành ấn phẩm: Nhật Bản và ASEAN hướng tới thế kỷ XXI; điều đó khảng định phía Nhật Bản có chiến lược mở rộng hợp tác tích cực và toàn diện với các nước ASEAN. Nếu chúng ta có chính sách tích cực và ưu tiên hơn đối với Nhật Bản, chắc chắn rằng JDI vào Việt Nam sã tăng lên nhanh chóng, góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển.

READ:  Trình bày các loại chiến lược kinh doanh (xét theo tính chất)

(2) Tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn hơn hiện nay

Trên cơ sở luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 9/ 6/ 2000, cần chỉ đạo các ban hành kịp thời các thông tư hướng dẫn theo đúng tinh thần của luật đầu tư nước ngoài mới. Cần để phòng tình trạng các bộ trong khi ban hành thông tư hướng dẫn dưa những nội dung mà họ không nhất trí với luật sửa đổi vào các văn bản đó, như thường đã xảy ra

+ Đầu năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã có một số quyết định có liên quan đến đầu tư nước ngoài, đáng tiếc là một số chủ trương đã không được các ngành thực hiện nghiêm túc, do đó làm giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với Chính phủ Ví dụ : Tổng công ty diịe lực Việt Nam cho đến nay vẫn chưa hoàn lại tiền ứng trước của các doanh nghiệp FDI xxây dựng hệ thống cung ứng điện ngoài hàng rào… Thủ tướng Chính phủ cần có thái độ nghiêm khắc hơn đối với những tổ chức và cá nhân không thi hành các quyết định của mình để tạo ra kỷ cương trong hoạt động của bộ máy Nhà nước.

+ Các thủ tục hành chính còn khá phức tạpcuộc cải cách để giảm thiểu các thủ tục phiền hà đang gặp trở ngại lớn chính từ các cán bộ lãnh đạo của bộ, ngành địa phương đụng đến quyền lực và lợi ích của hàng vạn người đã quen với cơ chế xin cho. Môi trường đầu tư có được cải thiện hay không, theo ý kiến của đại bộ phận nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, chính là có cải cách được bộ máy nhà nước, giảm thiểu được thủ tục hành chính không cần thiết, giảm thiểu chi phí cơ hội, tiíet kiệm thời gian hình thành và triển khai dự án đầu tư… Do vậy, Chính phủ cần nhiều thời gian để chỉ đạo có hiệu lực hơn công cuộc cải cách hành chính, giảm thiểu thủ tục hành chính, cần có các hình thức khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh đối với những cá nhân và tổ chức trong việc thực hiện chủ trương quan trọng và có ý nghĩa thời sự trọng đại này.

+ Cần ban hành, dù dưới dạng thí điểm như đã dự kién, chủ trương cho các doanh nghiệp FDI được phát hành cổ phiếu ở thị trường trong nước và có thể ở cả thị trường nước ngoài để thu hút thêm vốn đầu tư. cần có chủ trươnh về khuyến khích lập các quỹ đầu tư vào Việt Nam, mà hiện nay do ngân hàng nhà nước đang nghiên cứu, chưa được hình thành văn bản pháp quy, nên chưa động viên được sự quan tâm của các nhà đầu tư, như các nước trong khu vực đã và đang làm.

+ Cần nghiên cứu có hệ thống hơn, trên cơ sở đó chuẩn bị có văn bản tốt hơn đối với những vấn đề có liên quan đến hoạt động đầu tư như hệ thống thuế thu nhập cá nhân, hệ thống tín dụng, bảo lãnh đầu tư, những vấn đề có liên quan đến lao động từ việc tuyển chọn, đào tạo tuyển chọ cán bộ, cho đến việc tranh chấp lao động. Thực tế hiện nay đã có đủ cơ sở để tìm ra phương thức giải quyết đúng đắn các vấn đề phức tạp này trong tình hính nước ta, tránh tình trạng các bộ các địa phương tự ý ban hành những quy định trái với tư tưởng chỉ đạo của đảng và nhà nước về khuyến khích đầu tư với nước ngoài.

(3) Cần tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư mạnh mẽ hơn, có trọng điểm thị trường về đầu tư để các công cuộc vận động đầu tư mang lại hiệu quả thiết thực

Đối với thị trường đầu tư, cần có sự phân tích một cách nghiêm túc cái gọi là thị trường truyền thống ở Châu á, để giải thích được những hiện tượng vì sao Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam chỉ bằng 57% Singapore, trong khi đó lại chiếm đến 235 tổng đầu tư vào Thái Lan. Từ đó, có những giải pháp hữu hiệu trong việc xúc tiến đầu tư với các tập đoàn lớn của Nhật Bản, mà có vẻ hiện nay khá nhiều tronh số đó không quan tâm lắm đến thị trường Việt nam, cũng như các công ty vừa và nhỏ. Đối với Đài Loan, Hàn Quốc và thị trường khác cũng cần có sự phân tích cụ thể. Đôi svới các thị trường mới, đặc biệt là Mỹ, cần nghiên cứu có hệ thống từ luật pháp của liên bang, của các bang, các loại hình doanh nghiệp từ lĩnh vực bao gồm cả các công ty vừa và nhỏ để có biện pháp xúc tiến đầu tư phù hợp nhăm lôi kéo bằmg được những nhà đầu tư đối với từng dự án.

Một chương trình xúc tiến đầu tư, có sự phân công giữa các ngành, các địa phương, trên cơ sở định hướng thống nhât, đối với từng thị trường, từng đối tác là rất cần thiết trong điều kiện hiện nay.

(4) Hình thành một hệ thống tổ chức hợp lý đối với hoạt động đầu tư nước ngoài

Nhăm nâng cao hiệu quả hoạt động FDI, cần tránh tình trạng sáp nhập, tổ chức mới, giải thể khá tuỳ tiện, mà không tính đến hiệu quả của sự thay đổi với tâm lý nhà đầu tư, cũng như khả năng của quản lý nhà nước đối với FDI

(5) Xử lý đối với 4 loại dự án đã có

Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện đang hoạt động ở Việt Nam cần được phân loại dựa trên thực tế hoạt động kinh doanh của họ hiện na, để đánh giá chính xác hơn về thực trạng, mhững khó khăn, tình trạng lời lỗ của các doanh nghiệp, trên cơ sở đó có giải pháp xử lý đúng đắn.

+ Đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực dầu khí, cần được đánh giá cụ thể tình trạng thăm dò, kết quả các hợp đồng đã được ký cho đến nay năng lực có thể thăm dò của Petrol Việt Nam, khả năng đưa vào khai thác các giếng dầu do nhà đâu tư nước ngoài thăm dò trong thời gian sắp tới, các hoạt động sau khâu khai thác như lọc dầu hoá dầu… để có đước bức tranh tổng quat, nhằm điều chỉnh hợp lý chiến lược của ngành dầu khí trong 5 năm sắp tới.

READ:  Trình bày Cơ sở đo lường Tài sản tài chính

+ Đối với các dự án công nghiệp, cần được tổng hợp và đánh giá để có một nhận định chính xác về hiệu quả kinh tế xã hội, về tình trạng công nghệ, về ưu thế của từng hình thức đầu tư như liên doanh 100% vốn nước ngoài.

+ Đối với các dự án thuộc lĩnh vực công nghệ cao như điện tử, linh kiện điện tử, phần mềm cần xem xét các ưu đãi hiện hành và đối chiếu với mục tiêu phát triển trong giai đoạn sắp tới, đồng thời phân tích kỹ các đối tác đầu tư, để có thể đạo ra được môi trường hấp dẫn, nhằm đặt được mục tiêu tạo ra đột phá chiến lược trong 5 năm sắp tới.

+ Đối với các dư án trong lĩnh vực và dịch vụ, hiẹn đang gặp khó khăn do tình trạng thừ tương đối công suất của các khách sạn, văn phòng cho thuê, do giá cả giảm nhiều vì cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp, cần có giải pháp cụ thể đối với từng trường hợp, để cùng với các doanh nghiệp đó tháo gỡ các khó khăn trước mắt, phục hồi hoạt động kinh doanh bình thường.

+ Đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, hàng. không, dịch vụ bảo hiểm, kiểm toán, ngân hàng cũng cần được đánh giá hiệu quả của các doanh nghiệp FDI, các hình thức đầu tư, để có được những chủ trương phù hợp với các cam kết quốc tế mà nước ta phải thực hiện.

+ Đối với các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ sản, bao gồm các dự án trồng trọt, chăn nuôi, công nghiệp chế biến, mà hoạt động FDI khó chuyển khai thì chưa có phương thức hợp lý, cần được phân tích để tìm ra nguyên nhân chủ yếu, trên cơ sở đó đề ra các chủ trương mới phù hợp hơn.

Việc xử lý đối với các dự án đang hoạt động cần được coi là co stầm quan trọng đặc biệt và cần có chủ trương nhất quán bằng các giải pháp hữu hiệu, khuyến khích đầu tư chiều sâu, mở rộng kinh doanh của các dự án này, để đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn, đó cũng là cách tốt nhất biểu hiện môi trưưòng đầu tư tại Việt nam thông qua kết quả hoạt động thiết thực của các dự án này.

b. Đối với các dự án đang triển khai hoạt động mà gặp khó khăn về tài chính hoặc những nguyên nhân khác cần xem xét cụ thể để có biện pháp sử lý hữu hựu, kể cả việc khuyến khích các ngân hàng tài Việt Nam cấp tín dụng đầu tư, hoặc thu hút các nhà đầu tư mới tham gia vào những dự án đó để đưa vào kinh doanh. Một số trường hợp cá biệt như khách sạn Vàng – Hà Nội cần được xử lý, để tránh tình trạng kéo dài vô thời hạn các công trình xây dựng dở dang ở các thành phố lớn.

c. Đối với các dự án chưa triển khai thực hiện, trong báo cáo nội bộ cần phản ánh đầy đủ số lượng dự án, số vốn đầu tư không thể triển khai thực hiện được, để chấm dứt tình trạng ảo tưởng đối với số vốn đầu tư chưa được thực hiện.

d. Đối với những dự án đầu tư còn có hy vọng thực hiện, cần tiếp xúc vơi chủ đầu tư để nhận biết được ý đồ và năng lực thực sự của họ, từ đó để đánh giá chính xác mức độ và thời gian có thể bắt đầu triển khai thực hiện dự án, cũng như đưa dự án vào kinh doanh.

Việc đánh giá 4 loại dự án trên đây là rất cần thiết, để có cơ sở đánh giá tổng vốn đầu tư của các dự án hiện có sẽ được đưa vào hoạt động trong 5 năm sắp tới, mức vốn đầu tư của từng lĩnh vực, từ đó đối chiếu với nhu cầu về vốn đầu tư mà FDI phải đảm nhiệm để có những giả pháp hữu hựu

Kết luận

Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào việt Nam đến nay được hơn 10 năm nhưng tốc độ đầu tư đã diễn ra khá nhanh.

Trên thực tế thời gian qua FDI của Nhật Bản vào Việt Nam đã góp phần đáng kể trong công việc cải tạo cơ cấu hạ tầng, tạo công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.

Là một nước thành viên của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam á ( ASEAN ) Việt Nam cần tranh thủ những chính sách tăng cường quan hệ với các nước ASEAN và Nhật Bản để thu hút vốn từ các cường quốc kinh tế này, phịc vụ yêu cầu phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới và nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, đồng thời học tập và rút ra các bài học kinh nghiệm của các nước láng giềng trong quá trình phất triển kinh tế thị trường và quá tình thu hút và sử dụng vốn đầu tư.

Có thể nói quan hệ với Nhật Bản là cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế và công nghiệp hoá – hiện đậi hoá của Việt Nam. Do đó, có thể thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư tực tiếp, Việt Nam cần phải phát huy tối đa chính sách kết hợp sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và sản xuâts hướng vào hàng xuất khẩu hiện nay nhằm mở rộng cơ hội đầu tư cho cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng. Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản đang phát triển, chắc chắn trong tương lai quan hệ Việt Nam – Nhật Bản sẽ phát triển hơn nữa nhất là trong lĩnh vực đầu tư.