Cuộc đời và sự nghiệp tác giả Lâm Thị Mỹ Dạ

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh năm 1949 tại Quảng Bình, hiện sống tại Huế. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam năm 1978, từng học Trường viết văn Nguyễn Du; tham gia khóa đào tạo  tại Học viện Gorki (Liên Xô cũ), ủy viên BCH Hội nhà văn Việt Nam khóa III và IV. Giải Nhất cuộc thi thơ báo văn nghệ 1971-1973; Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam cho tập th ơ Bài thơ không năm tháng Giải A thơ của ủy ban toàn quốc các Hội LHVHNT Việt Nam năm 1999. Giải A thơ Giải thưởng văn học Nghệ thuật Cố đô (1998-2004) của UBND tỉnh và Hội LH VHNT Thừa Thiên Huế. Năm 2007, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật với  3 tập thơ: Trái tim sinh nở (1974), Bài thơ không năm tháng (1983) và Đề tặng một giấc mơ (1988). Năm 2005, tập thơ Cốm non (Green rice) của chị được dịch ra tiếng Anh, in và phát hành tại Hoa Kỳ.

Tác phẩm chính

Trái tim sinh nở (thơ, 1974)

Bài thơ không năm tháng (thơ, 1983)

Danh ca của đất (truyện thiếu nhi, 1984)

Nai con và dòng suối (truyện thiếu nhi, 1987)

Phần thưởng muôn đời (truyện thiếu nhi, 1987)

Hái tuổi em đầy tay (thơ, 1989)

Mẹ và con (thơ, 1994)

Đề tặng một giấc mơ (thơ, 1998)

Hồn đầy hoa cúc dại (thơ, 2007)

Một tập thơ gồm 56 bài nhan đề Cốm Non (Green Rice) do bà tự tuyển chọn trong những tập thơ đã xuất bản của mình được Nhà xuất bản Curbstone dịch sang tiếng Anh và phát hành tại Hoa Kỳ năm 2005.

Thơ  phải bắt đầu từ sự chân thật

     Ít ai biết, lên chín, Lâm Thị Mỹ Dạ đã làm thơ. Lên 10, chị có tập thơ đầu tiên với khoảng 40 bài. Do chiến tranh, tập thơ bị thất lạc. Chỉ đọng lại trong tâm trí nhà thơ những câu thơ rất buồn với nỗi trắc ẩn thời thơ ấu: Tuổi thơ tôi như sáng chiều đỏ lựng /Hắt máu xuống dòng sông đen.

     Nhắc lại chuyện cũ. Đôi mắt nâu thẳm sâu của chị bỗng mênh mang. Những ký ức tuổi thơ đau buồn như mãi mãi in hằn trong tim chị những vết sẹo. Ba chị vốn là một người gốc Hoa, từng tham gia Việt Minh ở Huyện đội Lệ Thủy (Quảng Bình) thời chống Pháp. Sau Cách Mạng Tháng Tám, ông đưa bố mẹ mình vào làm ăn ở Sài Gòn. Năm 1954, ông mua 2 tấm vé máy bay đón hai mẹ con chị từ sân bay Đồng Hới nhưng cuối cùng, mẹ không đi vì còn mẹ già và cô em gái nhỏ. Sau 1975, dù ông được thủ tướng Phạm Văn Đồng tặng Bằng khen vì có công với cách mạng nhưng những năm tháng sống cùng mẹ ở Quảng Bình, chị bị liệt vào hàng có bố đi Nam theo địch. Cái lý lịch đen bị nhầm lẫn ấy đã khiến chị phải khốn đốn cả thời thơ ấu.

     Cũng do cái lý lịch đen ấy mà học xong cấp ba ở trường sơ tán Ngư Hóa, chị không vào được đại học. Thế là đội bom Mỹ vượt 150 km đường núi về Lệ Thủy, khi thì lui cui với công việc bán hàng của mẹ ở HTX. Khi thì đi cấy lấy công. Những lúc rỗi thì  đọc sách và …làm thơ để giả bày nỗi niềm trong tận đấy tim một cô bé bị xa lánh. Từ những bài thơ, có những bài được giải ở  Báo Quảng Bình từ cấp II mà nhà thơ Hải Bằng phát hiện ra, giới thiệu chị vào Hội Văn nghệ Quảng Bình… Thế nên không biết, chị đã chọn thơ, hay chính thơ đã chọn chị.

READ:  Phân tích tâm trạng chú hổ trong bài Nhớ rừng của Thế Lữ

      Bởi có một điều thật lạ. Ông  ngoại chị sinh ra ở vùng  An Cựu-Huế và chơi đàn bầu rất hay, thường đánh đàn trong các đám hát. Bà ngoại tôi yêu ông  cũng vì tiếng đàn ấy. Bà cũng là người hát ca Huế rất hay. Còn nhớ khi sắp mất, bà hát một câu ca Huế từ điệu Nam Bằng chuyển sang Nam Ai thì không lên nổi và trút hơi thở cuối cùng bằng điệu ca đó. Từ nhỏ, nhà thơ rất thích hát.  Những năm 1966 chiến tranh ác liệt, mỗi lần đi học, chị thường gặp các cô bộ đội trong đoàn văn công xinh đẹp trên đường vào Nam. Tự dưng, chị ao ước muốn được như họ. Thế là một lần, nhờ người quen giới thiệu, chị  đăng ký thi vào đoàn văn công và không ngờ hát đựoc điểm 10. Đ ược nhận vào đoà n, lâm Thị Mỹ Dạ đã tạm biệt thầy cô, chuẩn bị vác ba lô lên đường. Chị nói với mẹ: Con sẽ vào Nam. Bà khóc ngất: Mẹ chỉ có mình con mà bom đạn chiến tranh thì ác liệt… Thương mẹ quá, chị không đành lòng đi.

      Năm 1971, ở tuổi 20, Lâm Thị Mỹ Dạ đạt giải Nhất báo văn Nghệ với bài Khoảng trời và hố bom. Một sự kiện chính thức ghi dấu cái tên lâm Thị Mỹ Dạ vào văn đàn thi ca Việt Nam. Một bài thơ về chiến tranh, được viết bởi một trái tim nhiều oan khuất, viết dưới làn bom giặc  nhưng thấm đẫm chất nhân văn.

      Bốn mươi năm đã trôi qua, nói về xuất xứ bài thơ, chị vẫn nhớ như in từng chi tiết. Đó là năm 1970, trong một chuyến thực tế ở đường 10, khi ấy đang rất ác liệt. Chị gặp một đội thanh niên xung phong đang làm đường, trong đó có một cô đã lớn tuổi. Hỏi ra mới hay cô ấy người Quảng Ninh đã được giải ngũ 3 năm trước nhưng về đến nhà thì cả gia đình đã bị bom Mỹ giết chết. Ngôi nhà thân yêu của chị chỉ còn lại cái hố bom sâu hoắm và những mảnh bát vở vung vãi. Sau mấy ngày ở nhờ nhà bà con, chị lại khoác ba lô vào chiến trường… Câu chuyện trở thành nỗi ám ảnh trong lòng nhà thơ. Năm 1972, sau ngày có lệnh ngừng bắn, Lâm Thị Mỹ Dạ có dịp trở lại con đường đó, hỏi đến đơn vị của chị thì không ai biết nữa. Không biết ai còn, ai mất. Chỉ còn những hố bom đọng nước với  những khoảng trời vời vợi. Sau chuyến đi trở về nhà được mấy ngày, nhà thơ ra sông giặt áo và bỗng  sững sờ gặp lại hình ảnh  khoảng trời trong xanh lung linh đáy nước. Những ám ảnh về cái hố bom trổi dậy. Chị  bỏ quên cả quần áo giặt dở, chạy về nhà để viết Bài thơ Khoảng trời và hố bom sau đó được giải Nhất  cuộc thi thơ trên Báo Văn nghệ năm 1971-1973, lúc chị  vừa tròn đôi mươi.

READ:  Em hãy viết bài giới thiệu chiếc nón ấy cho bạn bè thế giới biết

      Trở lại tập thơ thứ 8 của chị. Nó giống như một sự đúc kết những vui, buồn, khát vọng… của cả một đời người. Kể cả những điều mà có lẽ một người khôn ngoan, họ sẽ chẳng nói ra. Chị đính chính: Thực ra, có những bài là  tôi nói hộ cho người khác. Như bài Tiễn anh bên đầm sen viết năm 1969, lúc ấy tôi mới mười tám, đôi mươi và chưa biết yêu lần nào. Đó là cảnh chia tay của anh lính trẻ với chiếc ba lô trên vai, chuẩn bị ra chiến trường và người con gái mĩm cười, mắt ngấn lệ. Xe chuyển bánh, để lại sau lưng  đầm sen với khoảng trời xanh ngắt. Cái cảnh chia ly ấy, sao mà đẹp thế. Tôi bần thần  nghĩ, không biết bao giờ người lính mới trở về, còn đầm sen, đến mùa lại nở trắng những bông hoa. Hay cách đây khoảng chục năm, một nữ doanh nhân ở T.P Hồ Chí Minh, sau khi đọc bài ừ thôi tưởng tượng, đã hẹn gặp tôi  bằng được. Gặp nhau chị khóc, bảo: Cuộc đời chỉ cần cho tôi một tưởng tượng  ấy của chị thôi, cũng đã đủ rồi… Cho nên, cái tôi ấy trong thơ âu cũng chỉ là một sự hóa thân.

      Nhưng cũng có những bài thơ, người đọc có thể cho rằng tôi dại. Tôi uỷ mị. Tôi đa mang. Tôi  bất hạnh Nhưng không sao. Đó chính là con người thật của tôi. Người ta chỉ đạt đến thơ như khi một qủa trứng nóng bức tới mức tự nó phải tách vỏ nở ra đời sống -một đời sống sinh động, có hình hài. Mà muốn có những bài thơ như thế thì phải sống thật với chính mình. Một khi ta tự lừa dối chính ta thì thơ không còn là thơ nữa.

      Còn bây giờ, ở tuổi 60, đọc lại cả một gia tài thơ của mình, chị có thể nói gì về thơ? Chị lại từ tốn, sau một lúc im lặng: “Đọc lại, có cả những cái mình thích. Có cả những cái không thích. Có niềm vui và cả nỗi buồn. Vui nhất là một lần, cách đây khoảng chục năm, tôi đọc đựơc một câu chuyện trên báo Tiền Phong. Chuyện thăm dò thị hiếu đọc của nông dân. Thăm dò mãi mới tìm đựợc  một bác nông dân có đọc báo. Hỏi đọc báo gì? Trả lời là Báo Văn nghệ. Hỏi thích đọc mục gì?. Bác nông dân bảo: Đọc bài hố bom của anh Lâm Mỹ Dạ. Đó là  niềm vui của người làm thơ.

      Sau khi bài Khoảng trời và hố bom đạt giải nhất Báo Văn nghệ, tôi chịu một áp lực ghê gớm. Tự dằn vặt, sau giải thưởng, mình phải viết thế nào đây?. Đến mức sau đó tôi làm được khoảng 10 bài nhưng đốt sạch vì mặc cảm thơ. Nhưng rồi thơ lại cứ đến, như một thứ quà trời cho.