1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA DÂN SỐ NƯỚC TA :
1.1 Về quy mô dân số:
Việt nam là một quốc gia có quy mô dân số lớn, tốc độ phát triển dân số ngày càng nhanh. Năm 2000 Việt Nam đặt 77,68 triệu người, đứng thứ 2 ở Đông Nam Á, chỉ sau Indo-nêxia và xếp thứ 13 trong tổng số hơn 200 nước trên thế giới. Quy mô dân số lớn còn thể hiện ở mối quan hệ giữa dân số và đất đai.
Theo các nhà khoa học tính toán mật độ dân số thích hợp chỉ nên dừng lại từ 35 đến 40 người/ 1 km2, thì ở Việt Nam gấp 5 đến 6 lần “Mật độ chuẩn” và gần gấp 2 lần mật độ dân số của Trung Quốc – nước đông dân nhất nhất thế giới.
Cùng với điều đó tốc độ phát triển dân số ngày càng nhanh. Đến năm 1921, dân số Việt Nam là 15,58 triệu người, Năm 1960 dân số tăng gấp đôi : 30,17 triệu người, năm 1989 dân số đạt 60,47 triệu người. Giai đoạn 1921-1995 dân số nước ta tăng 4,7 lần , trong khi đó dân số thế giới chỉ tăng 3,1 lần. Nếu 35 năm (1921- 1955) dân số tăng lên 9,6 triệu người thì 40 năm tiếp theo ( 1955-1995) dân só bùng nổ với 48,9 triệu người tăng thêm.
Mặc dù tỷ lệ giảm sinh vừa qua đã giảm và còn tiếp tục giảm, nhưng kết qủa giảm sinh chưa thật sự vững chắc, còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia tăng dân số nhanh trở lại, tư tưởng trọng nam khinh nữ có chuyển biến nhưng vẫn còn 16 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh là 115 nam so với 100 nữ, vượt quá mức sinh sản tự nhiên (ở những vùng nông thôn nghèo, vùng sâu, vùng xa…tỷ lệ này còn cao hơn). Nếu không duy trì sự nỗ lực thì quy mô dân số nước ta vào giữa thế kỷ XXI có thể nên tới 125 triệu người hoặc cao hơn, và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Do đó công tắc dân số cần tiếp tục đẩy mạnh, làm chuyển đổi hành vi một cách bền vững trong việc thực hiện chuẩn mực gia đình ít con .
1.2 Cơ cấu dân số:
Cơ cấu dân số ở nước ta trong thời gian qua là không hợp lí cả về giới tính, nhóm tuổi, giữa thành thị và nông thôn. Thực tế cho thấy tình trạng mất bình đẳng về giới ở nước ta vẫn xảy ra nhất là khả năng tiếp cận giáo dục, đào tạo về chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình đối với phụ nữ và trẻ em gái còn nhiều hạn chế.
Cơ cấu giới tính : Tỷ lệ nữ trên tổng số dân ở nước ta không ổn định và biến động thất thường, giao động từ 50,3 % đến 50,7% (giai đoạn 1921-1939), 50,9% đến 51,4% (giai đoạn 1943-1970), tăng lên 52,1% (năm 1975), giảm dần và đạt 50,6% (năm 1989) lên và ổn định ở mức 51,2% (trong một năm 90, thế kỷ XX), riêng năm 1989 là 51,49% và giảm xuống 50,85% (Năm 1999).
Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi cũng có những khác biệt lớn. Trước miền Nam giả phóng, dân số theo nhóm 0-14 tuổi chiếm 48%, dưới 20 tuổi chiếm 60% . Ở miền Bắc, theo số liệu điều tra năm 1960 nhóm tuổi 0-14 tuổi là 42,8%, và tương ứng các năm 1979, 1989 và 1999 là 42,55% , 39,82% và 33,4%. Tỷ lệ người già từ 60 tuổi trở lên, tăng từ 7,07% (năm 1979) ; 7,14% (năm 1989) tới 8,04% (năm 1999). Dân số phụ thuộc đă giảm từ 49,62% (năm 1979), 46,96% (năm 1989) xuống 41,15% (năm 1999). Điều này chứng tỏ dân số phụ thuộc đang giảm theo thời gian, xong tỷ lệ người già lại tăng lên.
Cơ cấu dân số thành thị và nông thôn : Đầu thế kỷ XX dân số thành thị mới chiếm 2% dân số toàn quốc, đến năn 1943 chiếm 9,2%. Tỷ lệ dân số thành thị miền Bắc năm 1931 là 4,6%, miền Trung 3,4% và miền Nam là 4,6%. Đến năm 1952 dân số thành thị là 10%, năm 1960 là 15%, năm 1970 là 17%. Năm 1980, cơ cấu dân số thành thị cả nước chiếm 19,1%. Tổng điều tra dân số 1989 cho thấy, dân số thành thị các tỉnh miền núi và Trung Du Bắc Bộ là 19,92%, Tây Nguyên là 22,13%. Tổng điều tra dân số năm 1999 tiếp tục cho thấy dân số thành thị Tây Nguyên giảm 5,43% và miền núi phía Bắc giảm 4,26% so với năm 1989.
1.3 Chất lượng dân số :
Nhìn một cách tổng quát chất lượng dân số Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn nhân lưc chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các yếu tố về thể lực của người Việt Nam nhất là chiều cao cân nặng sức bền còn rất hạn chế. Theo điều tra mức sống năm 1997-1998 tỷ lệ suy dinh dưỡng ở người lớn là 65% với nam và 38% với nữ có tới 41,51% số trẻ em thuộc diện thấp, còi (thấp hơn so với lứa tuổi ) và 40,1% trẻ em có cân nặng thấp hơn so với tuổi. Ngoài ra có hàng triệu trẻ em bị tàn tật, mắc bệnh bẩm sinh, ảnh hưởng bởi chất độc màu ra cam, về trí lực, mặc dù tỷ lệ biết đọc, biết viết khá cao 91,2% (năm 1999), nhưng 74% số người đã thôi học mới chỉ có trình độ phổ thông cơ sở, số người đạt trình độ phổ trung học chỉ giao động trong khoảng từ 10% đến 15% (kết quả suy rộng mẫu điều tra năm 1999), 91,84% dân số từ 15 tuổi trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Theo số liệu năm 2002 của tổng cục dạy nghề, chỉ có 17,7% trong tổng số gần 40 triệu lao động của Việt Nam được coi là có kỹ năng chuyên môn. Tội phạm, tiêu cực xã hội tăng, trong đó có cả trẻ em đang là lỗi bức bối của xã hội. Chỉ số phát triển con người ở Việt Nam (HDI) năm 1999 là 0,682 điểm, xếp hạng 101 trong số 162 quốc gia.
1.4 Phân bố dân cư :
Phân bố dân cư nước ta nhìn trung là bất hợp lí. Dân số tập trung chủ yếu ở đồng bằng Sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng (chiếm 42,8% dân số cả nước), trong khi đó diện tích của 2 vùng này chỉ chiếm 16,6% diện tích cả nước. Ngược lại miền núi phía Bắc và Tây Nguyên dân cư thưa thớt. Mật độ dân số ở các tỉnh rất chênh lệch nhau : Năm 1999 bình quân dân số trên đất đai ở Thái Bình là 1194 người/ 1 km2, thì ở Kom Tum chỉ có 32 người/ 1km2 (chênh lệch kém tới 40 lần). Mặt khác vốn đầu tư nước ngoài vào các vùng cũng rất khác nhau. Giai đoạn 1988-1998, so vùng Tây Nguyên mức đầu tư nước ngoài vào đồng bằng Sông Hồng gấp 176 lần, và Đông Nam Bộ gấp 307 lần. Thực trạng này chứa đựng nguy cơ di cư tự do lớn so với di dân theo dự án . Giai đoan 1990-1997 có 1,2 triệu dân di cư tới các vùng dự án . Ở thành phố Hồ Chí Minh luồng di cư tự do đến không ngừng tăng lên : Giai đoạn 1981-1985, bình quân mỗi năm tăng thêm 130.000 người, giai đoạn 1986-1990 là 185.000 người và năm 1991-1996 là 213.000 người.
Nhìn chung tình trạng di dân tự do và sự di chuyển của lực lượng lao động đó đã làm trầm trọng thêm việc đáp ứng những dịch vụ xã hội cơ bản gây ô nhiễm môi trường sống, tàn phá tài nguyên và gia tăng các tệ nạn xã hội. Quy mô dân số ở thành thi vượt quá khả năng đáp ứng của kết cấu hạ tầng (nhà ở, giao thông, cấp thoát nước…).
2. TÁC ĐỘNG CỦA DÂN SỐ ĐẾN KINH TẾ Ở VIỆT NAM :
Dân số vừa là lực lượng sản xuất vừa là lựclượng tiêu dùng. Vì vậy quy mô, cơ cấu và sự gia tăng của dân số liên quan mật thiết đến nền kinh tế và tới toàn bộ sự phát triển của mỗi quốc gia. Quy mô dân số lớn , nên lực lượng lao động rồi dào, Việt Nam vừa có khả năng phát triển toàn diện các ngành kinh tế vừa có thể chuyên môn hoá lao động sâu sắc tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy xã hội phát triển. Lực lượng lao động nước ta vào loại trẻ giữa chuyển dịch và tạo ra tính năng động cao trong hoạt động kinh tế .
77 triệu dân là 77 người tiêu dùng. Đây là một thị trường rộng lớn hấp dẫn đầu tư, kích thích sản xuất, phát triển kinh tế. Tuy nhiên, những đặc điểm dân số nói trên cũng có nhiều tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế. Điều này có thể tập trung xem xét đến các khía cạnh : Tác động của dân số đến nguồn lao động, việc làm, tăng trưởng kinh tế, tiêu dùng và tích luỹ
2.1 Dân số tác động đến lao động và việc làm :
Luật pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tuổi lao động của nam là từ 15-60 tuổi còn đồi với nữ là 15-55 tuổi. Tỷ lệ dân số trong tuổi lao động Việt Nam năm 1997 là gần 58% với khoảng 44 triệu người. Nguồn lao động ở nước ta có quy mô lớn và tăng rất nhanh. Số người bước vào độ tuổi lao động hàng năm không ngừng tăng lên. Năm 1990 : là 1,448 nghìn người, năm 1995 là 1,651 nghìn người, dự báo năm 2010 là 1,83 nghìn người và tổng số người trong độ tuổi lao động lên tới gần 58 triệu. Từ nay tới năm 2010, mặc dù dân số có thể tăng chậm lại nhưbg nguồn lao động của nước ta vẫn tăng liên tục. Giải quyết việc làm cho đội quân lao động khổng lồ này là một thách thức lớn cho nền kinh tế, một vấn đề kinh tế xã hội nan giải.
Xét về mặt cơ cấu nghề nghiệp, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại háo, lao động nông nghiệp có xu hướng giảm dần, lao động trong khu vực côn gnghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên, song điều đó đến nay Việt Nam vẫn c ó lao động theo ngành hết sức lạc hậu : Lao động chủ yếu làm việc trong khu vực nông ,lâm ngư nghiệp. Việc cải thiện cơ cấu lạc hậu này diễn ra rất chậm chạp. Điều này phụ thuộc nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu tố mức sinh ở nông thôn luôn luôn cao khoảng gấp đôi ở thành phố. Do vậy lao động tích tụ ở đây càng ngày một nhiều và tỷ trọng giảm chậm, mặc dù đã diễn ra luồng di dân mạnh mẽ từ nông thôn ra đô thị, kèm theo sựk chuyển đổi ngành nghề trong nông nghiệp, trong khi số dân và lao động khu vực này tăng lên nhanh chóng thì quỹ đất canh tác là có hạn. Hơn nữa quá trình công nghiệp hoá đất nước đang diễn ra mạnh mẽ thì đất nông nghiệp phải chuyển giao cho công nghiệp, dịch vụ, các công trình dịch vụ khác. Diện tích đất nông nghiệp không ngừng giảm xuống trong thời gian qua. Năm 1981 bình quân 0,42 Ha/ người, năm 1993 còn 0,098 Ha/ người. Bình quân hộ giàu ở nông thôn mới có 1,2 Ha đất canh tác trong khi ở Mỹ là 80 Ha, ở Châu Âu là 9 Ha.
Sức ép dân số, lao động lên đất đai hạn hẹp gây ra tình trạng thiếu việc làm phổ biến. Lao động nông nghiệp làm việc theo màu vụ mà ruộng đất là tư liệu sản xuất chính có ít nên số ngày công của lao động trong năm thường rất thấp (187 ngày/năm) . Hiện tại hình thức kênh tế trang trại đang được nàh nước khuyến khích phát triển cũng gập nhiều khó khăn khi diện tích đất đai của các hộ gia đình ngày càng bị thu hẹp. Thêm nữa là tình trạng khó khăn trong lao động việc làm ở các ngành khác dẫn đến hiện tượng dồn động thêm lao động nông thôn vào khu vực nông nghiệp. Năm 1997, có tới 7.358.199 người từ 15 tuổi trở lên, chiếm 25% tổng số lao động hoạt động kinh tế thường xuyên ở khu vực nông thôn thiếu việc làm. Tình trạng khan hiếm đất dẫn tới đồng ruộng manh mún, phân tán, khó thúc đẩy các tiến bộ khoa học, kỹ thuật như cơ giới hoá thuỷ lợi hoá, tổ chức lao động khoa học.Tình trạng di dân tự do từ nông thôn nên thành thi hoặc từ đồng bằng Sông Hồng lên miền núi phía Bắc vầ Tây Nguyên đã phát sinh và ngày càng răng mạnh, dẫn đến nạn phá rừng trần trọng. Dẫn đến diên tích rừng suy giảm theo cấp độ tăng của dân số : Dân số năm 1981 so với năm 1943 tăng 2,5 lần, diện tích rừng chỉ còn lại 40%.
Công nghiệp và dịch vụ là những ngành tập trung vốn đầu tư lớn nhưng do quy mô dân số tăng nhanh, cơ cấu dân số trẻ đòi hỏi phải sử dụng nhiều thu nhập quốc dân sử dụng cho giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội…Dẫn đến tình trạng thiếu trần trọng vốn tích luỹ đầu tư cho công nghiệp, dịch vụ. Hiện tại chất lượng thấp ,cơ cấu đào tạo nghề không hợp lí, phân bố không phù hợp là những nhân tố quan trong cùng với các yếu tố thiếu vốn, khủng hoảng tài chính, tiền tệ gây khó khăn cho quá trình tạo thêm việc làm trong khu vực công nghiệp, dịch vụ. Tỷ lệ công nhân được đào tạo ở nước ta còn thấp, chỉ chiếm 4,37% lực lượng lao động và một nửa trong số đó tuy đã được đào tạo nhưng không có bằng.
So với các nước trên thế giới và khu vực tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay tương đối cao và ổn định (Năm 1996 : 5,62% , năm 1997 : 5,81%) và tập trung ở những vùng đông dân hay đô thị lớn.
Vùng | 1996 | 1997 | 1998 |
Miền núi và trung du phía Bắc | 6,13 | 6,01 | 6,25 |
Đồng bằng Sông Hồng | 7,31 | 7,56 | 8,25 |
Bắc Trrung Bộ | 6,67 | 6,69 | 7,26 |
Duyên hải Miền Trung | 5,3 | 5,2 | 6,67 |
Đông Nam Bộ | 5,3 | 5,79 | 6,44 |
Tây Nguyên | 4,08 | 4,48 | 5,88 |
Đồng bằng Sông Cửu Long | 4,59 | 4,56 | 6,44 |
Bình quân cả nước | 5,62 | 5,81 | 6,85 |
Bảng 1 : Tỷ lệ thất nghiệp của lao động Việt Nam phân theo vùng .
Chỉ tiêu |
Đơn vị tính |
Thực tế đến năm 2000 (*) |
Mục tiêu phát triển (theo dự kiến) |
Theo tính toán từ các chương trình mục tiêu (khả năng) |
Cân đối về số lượng giữa khả năng và mục tiêu (cao hơn / thấp hơn) |
|||
Đến năm 2005 |
Tăng/ giảm B/q hàng năm 2001 – 2005 |
Đến năm 2005 |
Tăng/ giảm B/q hàng năm 2001 – 2005 |
Đến năm 2005 |
Tăng/ giảm B/q hàng năm 2001 – 2005 |
|||
A | B | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
1. Dân số
* – Thành thị – Nông thôn *Hệ số đô thị hoá 2.LLLĐ *Chia ra : -Thành thị -Nông thôn * Tỷ lệ LLLĐ thành thị chiếm trong tổng LLLĐ cả nước. 3.LLLĐ có việc làm thường xuyên * Tổng số * Chia theo nhóm ngành. -Nông, lâm, ngư -CN và XD -Dịch vụ 4.Cơ cấu LĐ có VLTX chia theo nhóm ngành : -Nông, lâm, ngư -CN và XD -Dịch vụ |
1000 Ng
1000 Ng 1000 Ng % 1000 Ng 1000Ng 1000Ng % 1000Ng 1000Ng 1000Ng % % % |
77.697,0 | 83.000 | 1.060,6 | 82.492,6 | 959,1 | -507,6 | -101,5 |
180647,3 | 22.828 | 835,5 | 22.685,5 | 725,1 | -552 | -110,4 | ||
59.049,7 | 60.175 | 225,1 | 59.807,1 | 234,0 | 44,6 | 8,9 | ||
24,0 | 27,5 | 0,70 | 27,5 | 0,60 | -0,5 | -0,1 | ||
38.643,0 | 42.665,0 | 804,4 | 42.665,0 | 804,4 | – | – | ||
8.726,0 | 11.029,9 | 473,4 | 11.029,9 | 473,4 | – | – | ||
29.917,0 | 31.572,1 | 331,0 | 31.572,1 | 331,0 | – | – | ||
22,6 | 26,0 | 0,68 | 26,0 | 0,68 | – | – | ||
36.205,6 | 40.000,0 | 758,9 | 40.007,5 | 760,4 | 7,5 | 1,5 | ||
22.670,0 | 22.600 | -14,0 | 24.020,0 | 270,0 | 1.420 | 284 | ||
4.743,7 | 8.000 | 615,3 | 7193,7 | 490,0 | -806,3 | -161,3 | ||
8791,9 | 9.400 | 121,8 | 8.793,8 | 0,4 | -602,2 | -121,4 | ||
62,56 | 56,5 | -1,2 | 60,04 | -0,5 | 3,54 | 0,7 | ||
13,15 | 20,0 | 1,4 | 17,98 | 1,0 | -2,02 | -0,4 | ||
24,29 | 23,5 | -0,16 | 21,98 | -0,5 | -1,52 | -0,3 | ||
|
2.2 Gia tăng dân số và tăng trưởng kinh tế :
Ở Việt Nam mối quan hệ giữagia tăng dân số và tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở bảng sau :
Các năm | Tỷ lệ gia tăng (GDP) | Tỷ lệ gia tăng |
1976-1980 | 0,4 | 2,47 |
1981-1985 | 6,40 | 2,55 |
1986-1990 | 0,39 | 2,2 |
1991-1995 | 8,3 | 2,0 |
1996 | 9,34 | 1,88 |
1997 | 8,15 | 1,80 |
1998 | 5,8 | 1,75 |
Bảng 3: Tăng trưởng kinh tế và gia tăng dân số Việt Nam.
Giai đoạn 1976-1980, tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người mang giá trị âm (-2,07) chứng tỏ mức sống không ngừng giảm. Giai đoạn 1986-1990, mặc dù GDP tăng với tỷ lệ 3,9% nhưng tỷ lệ tăng dân số nên đến 2,2% nên tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người cũng chỉ đặt 1,7%. Với tỷ lệ này cần 41 năm để mức số ng tăng gấp đôi. Mức sống vốn đã thấp lại chậm được cải thiện, nguy cơ tụt hậu của nước ta biểu hện rõ ràng. Giai đoạn 1990-1995, sản xuất phát triển, tỷ lệ tăng GDP khá, đồng thời tỷ lệ tăng dân số đã giảm còn 2% nên tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người hàng năm nên đến 6,3% mức sống dân cư được cải thiện nhanh. Tuy vậy tình hình gia tăng kinh tế và phát triển sản xuất giữa các vùng có sự khác biệt. Đồng bằng Sông Hồng và Miền Đông Nam Bộ có sản xuất dịch vụ phát triển mạnh nhất nhưng dân số lại tăng chậm nhất nên tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người hàng năm cao khoảng 10%. Ngược lại ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do tỷ lệ tăng dân số rất cao gần 3% trong khi sản xuất kém phát triển nên tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người hàng năm chỉ đạt khoảng 2%-3%. Với mức tăng trưởng khác nhau như vậy (mà nguyên nhân chủ yếu do mức tăng dân số lớn), thì nguy cơ phân hoá ngày càng sâu sắc giữa các vùng, đặc biệt là miền núi và đô thị khá lớn.
Tăng trưởng
(bình quân 1991-1995) |
Tỷ suất sinh thô
(bình quân 1993-1994) |
|
Miền núi và trung du Bắc Bộ | 5,56 | 2,89 |
ĐB Sông Hồng | 9,15 | 1,90 |
Bắc Trung Bộ | 5,75 | 2,96 |
Duyên hải Miền Trung | 6,45 | 2,63 |
Tây Nguyên | 5,97 | 3,59 |
Miền Đông Nam Bộ | 12,85 | 2,18 |
ĐB Sông Cửu Long | 7,38 | 2,01 |
Cả Nước | 8,30 | 2,53 |
Bảng 4: Tăng trưởng kinh tế và gia tăng dân số ở các vùng .
Rõ ràng nếu không có các biện pháp hữu hiệu để giảm nhanh tốc độ gia tăng dân số và đầu tư phát triển kinh tế mạnh hơn vào những vùng nghèo thì sự chênh lệch như trên như trên ở nước ta sẽ ngày càng lớn. Việc thực hiện chương trình dân số- KHHGĐ ở nước ta đã có tác dụng trực tiếp đối với sự phát triển kinh tế của đất nước vì giảm được tỷ lệ gia tăng dân số xuống nữa sẽ ghóp phần nâng cao mức tăng trưởng kinh tế.
2.3 Dân số tiêu dùng và tích luỹ :
Khẩu phần ăn chủ yếu của nước ta hiện nay là lương thực. Mức ăn bình quân nhân khẩu hàng năm phải đạt trên 300 Kg lương thực quy thóc mới bảo đảm đủ Kalo cho cơ thể. Cho đến năm 1989 sản lượng lương thực sản xuất qua các năm có tăng, song do tỷ lệ gai tăng dân số cao nên lượng lương thực quy thóc bình quân đầu người giảm và chưa đạt mức 300 Kg/người/năm . Từ năm 1940-1980 sản lượng lương thực nước ta tăng nên 2,6 lần nhưng dân số tăng 2,8 lần nên bình quân lương thực lại giảm từ 298 Kg/người/năm còn 268 Kg. Từ năm 1989 trở lại đây nhờ đường nối đổi mới sản xuất nông nghiệp phá t triển, sản lượng lương thực tăng nhanh tỷ lệ tăng dân số lại giảm dần nên lương thực bình quân đầu người đã đạt mức trên 300 Kg. Điều đáng lưu ý tuy tỷ lệ tăng dân số đã giảm đáng kể nhưng còn ở mức cao nên tỷ lệ tăng lương thực bình quân đầu người vẫn rất thấp so với tỷ lệ tăng tổng sản lương thực quy thóc cùng kỳ. Như vậy nếu chỉ nâng cao tổng sản lượng lương thực mà không chú ý đến giảm tốc đọ tăng dân số thì khó có thể nâng cao bình quân lương thực đầu người. Dân số tăng nhanh là áp lực lớn về lương thực, thực phẩm và là nguyên nhân chủ yếu của tình trạng đói nghèo. Đối với các sản phẩm tiêu dùng khác như vải vóc, diện tích lớp học, giấy bút, đồ gỗ, nhiên liệu…Tình hình cũng diễn ra như vậy cùng với nguy cơ tiêu dùng ngày càng lớn việc quản lí khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản lại thiếu chặt chẽ, đồng bộ đã làm cho tài nguyên thiên nhiên ở nước ta đang bị can kiệt dần, môi trường bị tàn phá ngày càng trầm trọng. Tốc độ khai thác và sử dụng khoáng sản ở nước ta cũng khá nhanh. Trong vòng 8 năm từ 1991-1998 sản lượng khai thác dầu, than, đá đều gấp hơn hai lần trong khi trữ lượng của chúng đều có giới hạn. Bên cạnh tác động của quy mô dân số đến quy mô tiêu dung thì cơ cấu tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng mạnh bởi các yếu tố dân số như cơ cấu theo độ tuổi giới tính…Chính sự khác biệt lớn về nhu cầu sử dụng hàng hoá, dịch vụ sinh hoạt giữa trẻ em và người già, nữ và nam đã tạo nên cơ cấu sản xuất và tiêu dùng xã hội khác nhau.
3. ẢNH HƯỞNG CỦA DÂN SỐ ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM :
3.1 Ảnh hưởng dân số đến giáo dục:
Sự thay đổi về quy mô và cơ cấu dân số sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển về số lượng và chất lượng đến hệ thống giáo dục. Việt Nam là nước có tỷ lệ gia tăng dân số cao cơ cấu dân số trẻ dẫn đến có hậu qủa kém cho sự phát triển giáo dục. Quy mô và tốc độ tăng dân số có tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự phát triển của giáo dục. Nếu tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường trong tổng số dân tương đối ổn định hoặc giảm rất chậm và quy mô nhu cầu giáo dục phổ thông phụ thuộc vào quy mô dân số. Ở nước ta do quy mô dân số tăng nhanh nên số lượng học sinh cũng không ngừng tăng nên. Tốc đ ộ tăng dân số cao sẽ làm cho số học sinh trong độ tuổi đến trường tăng nhanh chóng.
Tác động gián tiếp của quy mô và tốc độ tăng dân số thể hiện thông qua ảnh hưởng của sự tăng nhanh dân số đến chất lượng cuộc sống, mức thu nhập từ đó ảnh hưởng đến quy mô giáo dục, đầu tư cho giáo dục, chất lượng giáo dục. Ở nước ta do ngân sách chưa lớn, nên đầu tư cho ngành giáo dục chưa cao, cơ sở vật chất hạ tầng còn thiếu thốn, nhiều nơi còn chưa xây dựng được trường lớp khang trang, bàn ghế sách vở đồ dùng còn thiếu.
Mục tiêu đạt được phổ cập giáo dục tiểu học: Nhìn chung những nỗ lực phổ cập giáo dục hiện nay chưa chý ý đến những trẻ em nghèo. Một số điều tra còn cho thấy nỗ lực này đã bỏ qua đối tượng trẻ em nghèo, nếu không có sự quan tâm hỗ trợ tài chính của địa phương chắc chắn nhiều trẻ em không được đến trường, một số em khác thời gian đi học sẽ bị trì hoãn, hoặc quãng thời gian học tập bị rút ngắn. Nạn tảo hôn và việc mang thai ở tuổi vị thành niên cũng ngăn cản quá trình học tập. Tóm lại nếu không có chính sách đúng đắn về chiến lược dân số thì mục tiêu phổ cập tiểu học sẽ rất xa vời.
Cơ cấu dân số theo tuổi cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của giáo dục, cơ cấu dân số nước ta là trẻ nên nhu cầu giáo dục nước ta là lớn, do mức sinh cao nên cơ cấu dân số trẻ, tháp tuổi dân số có đáy mở rộng. Do đó quy mô của nền giáo dục tương ứng với dân số này có số học sinh cấp 1 lớn hơn cấp 2 lớn hơn cấp 3.
Phân bố địa lý dân số cũng có ảnh hưởng đến giáo dục. Ở nước ta dân số phân bố không đều giữa đồng bằng và miền núi giữa thành thị và nông thôn. Ở thành thị và các vùng đông dân kinh tế thường phát triển hơn, nên trẻ em có nhiều cơ hội được đến trường hơn những vùng kém phát triển dân cư thưa thớt. Ngoài ra do điều kiện kinh tế chưa có nên nước ta chưa quan tâm đúng mức đến sự phát triển giáo dục ở các vùng hẻo lánh và nhiều giáo viên không muốn làm việc ở vùng này. Mật độ dân số ở các khu vực thành thị quá lớn nên ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng giáo dục. Mật độ dân số quá lớn số trẻ em đến tuổi đi học cao gây quá tải, học sinh phải học 3 ca, ví dụ như c ở các thành phố lớn như : Hà Nội , Thành Phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng…
Ngược lại ở nơi dân cư thưa thớt, ví dụ như các dân tộc sống rải rác trên núi, số trẻ em trong độ tuổi đi học không nhiều, khoảng cách từ nhà đến trường lớn cũng là một yếu tố gây khó khăn cho ngành giáo dục.
3.2 Ảnh hưởng của dân số đến y tế :
Quy mô và tỷ lệ gia tăng dân số ảnh hưởng lớn đến hệ thống y tế :Nhiệm vụ của hệ thống y tế là khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Vì vậy quy mô dân số quyết định số lượng y bác sỹ và số lượng cơ sở y tế. Và dân số tăng quá nhanh sẽ dẫn lần khám và chữa bệnh của một người tăng lên. Nước ta là một nước có nền kinh tế chậm phát triển khả năng dinh dưỡng hạn chế, tỷ lệ mắc bệnh tăng lên, chưa hết bệnh suy dinh dưỡng. Dân số đông và tăng quá nhanh và dẫn đến nhà ở trật trội và vệ sinh không dảm bảo nhất là nguồn nước sinh hoạt. Dinh dưỡng kém và môi trường bị ô nhiễm là những điều kiện thuận lợi cho bệnh tật phát triển. Nước ta nhiều người vẫn không có việc làm nẩy sinh những tệ nạn xã hội do đó quản lý xã hội khó khăn, tai nạn giao thông tăng lên. Những nguyên nhân góp phần làm tăng bệnh tật và thương tật do đó cũng cần có nhiều cơ sở khám chữa bệnh. Như vậy quy mô dân số và tỷ lệ tăng của nó tác động trực tiếp đến nhu cầu khám chữa bệnh. Quy mô dân só lớn tốc dộ tăng dân số cao đòi hỏi quy mô hệ thống y tế bệnh viện , số cơ sở y tế, số gường bệnh, số y bác sỹ …cũng phải phát triển với tốc đọ thích hợp để đảm bảo các hoạt động khám và chữa bệnh cho người dân .
Sức khoẻ tình trạng mắc , bệnh nhu cầu kế hoạch hoá gia đình phụ thuộc rất lớn vào độ tuổi, giới tính của con người. Lứa tuổi thanh niên và trung niên, có sức khoẻ tốt hơn và do đó tỷ lệ mắc bệnh và mức chết thấp hơn so vơi trẻ em và người già. Nhu cầu kế hoạch hoá gia đình cũng cao hơn các nứa tuổi khác.
Phân bố dân số ảnh hưởng đến hệ thống y tế. Ở Các khu vực địa lý khác nhau , như đồng bằng miền núi, thành thị, nông thôn có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên , kinh tê xã hội lên có cơ cấu bệnh tật khác nhau.VD ở vùng đông bằng ,vùng ven biển Miền Bắc Việt Nam thì các bệnh về đường tiêu hoá, bệnh hô hấp là phổ biến,nhưng ở vùng núi cao thì bệnh sốt rét ,bệnh bước cổ lại là bệnh cần quan tâm phòng chống .Các bệnh xã hội hay lây lan như :giang mai, hoa liễu, AIDS .. thường tập trung ở các thành phố lớn mật độ cao. Mặc dù đã dạt được những thành tụu đáng ghi nhận ,nhưng tình trạng sức khoẻ nhân dân ,nhất là ở vùng sâu, vùng xa đang đặt ra nhiều bức xúc ,có nhiều vấn đề trở lên gay gắt. Đại dịch HIV –AIDS ở nước ta tuy chưa đến mức nghiêm trọng như ở các nước,nhưng với tốc độ lan truyền như hiện nay thì sẽ là một thách thức lơn đối với chất lượng dân số. Theo thống kê của uỷ ban quốc gia phòng Chống AIDS thì HIV ca đầu tiên vào tháng 12 –1990 đến tháng 12-2002 là 35.330 . Con số thực tế còn cao hơn nhiều còn đang tăng nhanh, có thể đạt đỉnh vào năm 2010. HIV /AIDS tác động mạnh đến các lĩnh vực y tế và sức khoẻ. Sự lan truyền nhanh HIV/AIDS tạo ra sự thay đổi phức tạp theo su huớng làm xấu đi các quan hệ xã hội ,nhất là gia đình . Nó làm đảo lộn mối quan hệ truyền thống trong các gia đình người bệnh và cộng đồng người xung quanh . Đó là những yếu tố tiềm ẩn của những xáo trộn ngoài mong muốn, không tích cực đối với xã hội . Đại dịch HIV/AIDS Ở nước ta gây những tổn thất lớn về kinh tế cho đất nước gia đình người nhiễn HIV ,sẽ ngăn cản làm chậm sự phát triển kinh tế xã hội .Dịch bệnh HIV/AIDS sẽ tác động khả năng phát triển nâu dài của đất thông qua những thay đổi theo chiều hướng không tốt cho cơ cấu dân cư và làm giảm cả số lượng và chất lượng lực lượng lao động của xã hội trong tương lai.
Nước ta cũng là một trong những nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới. Theo ước tính hiện có khoảng 40% phụ nữ có thai bị huỷ bỏ bằng biện pháp y tế xấp xỷ 1,5 triệu người /năm; có người nạo phá thai nhiều lần trong đời và nhiều lần trong một năm. Chăn sóc sức khoẻ bà mẹ còn yếu kém, hàng năm nước ta vẫn còn khoảng từ 2200 đến 2800 bà mẹ tử vong do các nguyên nhân liên quan đến sinh đẻ và thai ngén, trong khi 90% các trường hợp này có thể tránh được nếu có đầy đủ hệ thống chăm sóc. Khoảng 50% bà mẹ không đến cơ sở y tế để sinh con. Gần 60% các bà mẹ có thai trong tình trạng thiếu máu,sức khoẻ yếu .Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh trước 24 giờ chiến gần 80% trong tổng số trẻ em chết. Tỷ lệ chấp nhận các biện pháp tránh thai nhìn chung là tương đối cao( khoảng 65% các cặp vợ chồng trong độ tưổi sinh đẻ ) ; nhưng có đến 20% là các biện pháp tránh thai tỷ truyền thống hiệu quả thấp .Tỷ lệ lây nhiễm qua đường tình dục năm 1996 là 50.318 ca, năm 2002 lên tới 127258 ca cá tố chất về thể lực của người Việt Nam còn hạn chế đặc biệt về chiều cao và cân nặng và sức bền .Tỷ lệ trẻ em dưói 5 tuổi suy dinh dưõng cao , chiếm khoảng 30%. Đáng lưu ý là vẫn còn 1,5% dân số bị thiểu năng về lực và trí tuệ. Để thực hiện bằng được những mục tiêu cải thiện sức khởe của nhân dân ,góp phần nâng cao chất lượng dấn số dân số ,chúng ta cần phát huy hơn nữa những mặt đã đạt được khắc phục những mặt yếu kém kết hợp kinh nghiệm quốc tế với trong nước trong vấn đề chăm sóc sức khoẻ nhân dân và thực hiện kế hoạch hoá gia đình .Trước mắt cần khẩn trương thực hiện những nhiện vụ cơ bản sau đây:
– Tăng cường củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở:
– Xây dựng và ban hành chính sách ưu tiên
– Nâng cao chất lương địch vụ y tế công cộng đặc biệt là ở các tuyến y tế cơ sở miền núi ,vùng xâu, vùng xa.
– Tiếp tục đẩy mạnh công tác y tế dụ phòng và nâng cao sức khoẻ, gỉam gánh nặng bệnh tử vong .
– Tổ chức thực hiện tốt chiến lược dân sô Việt Nam giai đoạn 2001 đến 2010 coi việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình và giảm tỷ lệ sinh là một trong những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dân số.
3.3 Ảnh hưởng của sự gia tăng dân số quá nhanh đến bình đẳng giới :
Ngày nay tuy đã có những thay đổi quan trọng về vai trò của người phụ nữ, song điều này vẫn chưa phổ biến dân số và bình đẳng giới có tác động qua lại lẫn nhau trong sự tác động của nhiều nhân tố khác : như kinh tế, giáo dục…Dân số cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình đấu tranh cho bình đẳng giới. Tốc độ tăng dân số ảnh hưởng đến việc thực hiện bình đẳng nam nữ. Nên đặc trưng trong mối quan hệ giới giữa phát triển dân số và bình đẳng giới trong xã hội ngày nay là sự tăng dân số quá nhanh dẫn đến hậu quả xấu trong việc bình đẳng giới. Nước ta là một nước có tốc độ phát triển dân số nhanh, đầu tư của nhà nước cho giáo dục ít, do đó hệ thống giáo dục kém phát triển. Phụ nữ ít có cơ hội học tập và nâng cao trình độ. Vì vậy họ thường phải làm việc sớm và làm các công việc không có trình độ chuyên môn. Phụ nữ thường lấy chồng sớm và sinh nhiều con, do đó tốc độ tăng dân số cao thì địa vị của phụ nữ thường thấp kém nhiều so với nam giới. Trong phạm vi gia đình quy mô gia đình lớn (đông con) đặc biệt là trong các gia đình nghèo cha mẹ thường chỉ ưu tiên cho con trai đi học, co n gái phải đi làm sớm để giúp cha mẹ nuôi gia đình. Không được đi học, làm việc sớm và phải lấy chồng sớm khiến cho người phụ nữ không có trình độ học vấn cao. Vì vậy họ không thể tìm được những công việc có thu nhập cao. Không có trình độ hiểu biết nên họ không thể và không được tự mình quyết định tất cả các vấn đề có liên quan đến cuộc sống của họ như chọn bạn đời, chọn các phương tiên tránh thai, chọn thời điểm sinh con . Tóm lại dân số tăng nhanh nền kinh tế kém đã hạn chế quyền bình đẳng nam nữ .
3.4 Tác động của sự gia tăng dân số đến việc nâng cao mức sống dân cư :
Sự gia tăng dân số nhanh trở thành một gánh nặng một thách thức lớn cho phát triển nói chung và việc nâng cao mức sống của nhân dân : Tác động của sự gia tăng dân số nhanh làm cho đất canh tác nông nghiệp bình quân đầu người thấp, thiếu việc làm. Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhu cầu phát triển nhà ở, đất canh tác bình quân ở các vùng nông thôn giảm. Ở nhiều địa phương người nông dân nông thôn một mặt thiếu đất canh tác, mặt khác do đời sống ở nông thôn thấp kém đã di chuyển nên các thành phố làm cho nạn thất nghiệp gia tăng. Theo tổng điều tra dân số ở Việt Nam năm 1999 số người trong độ tuổi lao động từ 15-59 tuổi chiếm 59,89%. Hàng năm đội quân lao động lại được bổ sung gần 1 triệu người. Nước ta là nước mông nghiệp trên 70% lực lượng lao động sống ở nông thôn nên khi nguồn lao động tăng thì diện tích đất canh tác bình quân đầu người giảm. Năm 1940, bình quân 1 người có 0,26 Ha đất canh tác, năm 1955 là 0,19 Ha đến năm 1995 chỉ còn 0,1 Ha. Nguồn lao động dư thừa trong cả nước đang gây sức ép to lớn đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, làm cho mức sống của nhân dân tăng với mức độ chậm . Dân số tăng nhanh là một yếu tố rất quan trọng dẫn đến thu nhập bình quân đầu người thấp. Sự chênh lệch về bình quân đầu người giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Dân số tăng nhanh làm cho chất lượng nhà ở, dịch vụ y tế kém. Nhiều gia đình phải sống trong những ngôi nhà có diện tích chật hẹp và có chất lượng thấp. Nhiều người dân chưa được sử dụng nước sạch và công trình vệ sinh. Khẩu phần ăn của đa số người dân chưa đủ dinh dưỡng, tình trạng trẻ em bị suy dinh dưỡng còn nhiều.
4.GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ :
Hiện nay Đảng và nhà nước ta đang nỗ lực thực hiện công tác tuyên truyền, vận động để mọi người dân tự nhận thức được ý nghĩa của kế hoạch hoá gia đình đối việc xây dựng một gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc thông qua việc chủ động, tự nguyện, bình đẳng quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và mục tiêu chính sách của dân số trong từng giai đoạn, đồng thời, phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con. Nhà nước đảm bảo các điều kiện để cá nhân, cặp vợ chồng thực hiện mục tiêu chính sách dân số : Mỗi cặp vợ chồng sinh từ một đến hai con ; sinh con trong độ tuổi lí tưởng từ 22 tuổi đến 35 tuổi đối với nữ ; lựa chon khoảng cách giữa mỗi lần sinh hợp lý từ 3 đến 5 năm ; sử dụng biện pháp tránh thai phù hợp với điều kiện kinh tế, sức khoẻ, tâm lý và điều kiện khác của mỗi cá nhân, cặp vợ chồng. Nâng cao sức khoẻ cho mỗi người dân, đặc biệt là phụ nữ mang thai, phụ nữ nuôi con nhỏ : giảm tỷ lệ bệnh tật, tử vong đối với người mẹ và trẻ sơ sinh ; tăng cường các biện pháp phòng, chống, điều trị các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS. Nhà nước khuyến khích lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, thực hiện các chính sách xã hội để tạo động lực thúc đẩy việc thực hiện chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình sâu rộng trong nhân dân.
Nhà nước cũng thực hiện chính sách, biện pháp giúp đỡ hỗ trợ về vật chất và
tinh thần trong việc thực hiện chăm sóc sức khoẻ sinh sản kế hoạch hoá gia
đình, nâng cao chất lượng dân số đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở
vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.
Khuyến khích nam nữ kiểm tra sức khoẻ trước khi kết hôn. Chất lượng dân số
của cộng đồng được phản ánh qua tình trạng sức khoẻ, dinh dưỡng, nước sạch,
vệ sinh môi trường giáo dục, trật tự xã hội, gia đình văn hoá, tỷ lệ sinh
và thu nhập của cộng đồng.
III. KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài : “Hãy nêu và phân tích ảnh hưởng của sự phát triển dân số đến kinh tế xã hội ở Việt Nam ”. Không những đưa cho ta một bức tranh sống động về dân số nước ta trong thời kỳ vừa qua, thông qua những chỉ tiêu phản ánh : Quy mô, tốc độ gia tăng, cơ cấu. Một hình ảnh về thị trường lao động : Cung và cầu lao động và qua đó cho ta thầy được mối quan hệ dân số thị trường lao động, những cản trở đối với việc thực hiện vấn đề dân số. Một mặt những vấn đề cấp bách và thiết thực như vậy, nhưng điều quan trọng nhất đối với mỗi sinh viên chúng ta là : Ta đã chau rồi được vốn kiến thức về môn chuyên ngành, lắm bắt được thực tế tình hình dân số, thị trường lao động để từ đó tự nhận thấy mình phải có trách nhiệm đối với đất nước, trách nhiệm chính là việc học tập, lắm bắt được kiến thức cơ bản cộng với việc tìm tòi sáng tạo trong nghiên cứu, đưa ra những định hướng và giải pháp phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của đất nước nhằm thực hiện thực hiện mục tiêu chung mà đảng và nhà nước đã đề ra: “Thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”, đưa đất nước phát triển và theo kịp tốc độ của thế giới