Trình bày chính sách đối ngoại của Mĩ, Nhật Bản, và Tây Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai?

Chính sách đối ngoại của Mĩ

  • Với tiềm lực kinh tế, quân sự to lớn, sau chiến tranh thế giới thứ hai giới cầm quyền Mĩ đề ra “chiến lược toàn cầu” nhằm: chống phá các nước XHCN, đẩy lùi phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, thiết lập sự thống trị trên phạm vi thế giới.
  • Mĩ tiến hành viện trợ, lôi kéo khống chế các nước, lập các khối quân sự, gây nhiều cuộc chiến tranh xâm lược.
  • Tuy thực hiện được một số mưu đồ như góp phần làm sụp đổ CNXH ở Liên Xô và Đông Âu song Mĩ cũng vấp phải nhiều thất bại nặng nề, tiêu biểu là thất bại ở Việt Nam (1954 – 1975).
  • Từ 1991 Mĩ ráo riết xác lập trật tự thế giới “đơn cực” do Mĩ khống chế. Nhưng giữa tham vọng và thực tế có khoảng cách không nhỏ.
READ:  Cuộc cách mạng khoa học-kĩ thuật trong những năm gần đây có những thành tựu nào đáng chú ý? Cơ hội và thách thức của Việt Nam trước sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay?

Chính sách đối ngoại của Nhật Bản

  • Sau chiến tranh, Nhật là nước bại trận, lệ thuộc Mĩ => Kí với Mĩ “Hiệp ước an ninh Mĩ- Nhật” chấp nhận đặt dưới “ô bảo hộ hạt nhân” của Mĩ và để Mĩ đóng quân, xây dựng căn cứ quân sự trên đất Nhật.
  • Từ nhiều thập niên qua, Nhật thi hành chính sách đối ngoại mềm mỏng về chính trị để tập trung phát triển kinh tế.
  • Từ đầu những năm 90 của TK XX, Nhật nỗ lực vươn lên trở thành một cường quốc chính trị để tương xứng với tiềm lực kinh tế của mình.

Chính sách đối ngoại của các nước Tây Âu

  • Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược nhằm khôi phục ách thống trị với các thuộc địa trước đây: Hà Lan xâm lược trở lại Inđônêxia, Pháp xâm lược Đông Dương, Anh xâm lược Mã Lai… nhưng cuối cùng đều thất bại.
  • Trong thời kì “chiến tranh lạnh”, các nước Tây Âu tham gia khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) nhằm chống Liên Xô và các nước XHCN.