Nhà thơ Huy Cận không chỉ là một đại biểu xuất sắc của phong trào thơ mới mà ông còn là một nhà thơ lớn của nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La) ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Ngày sinh hiện nay là do ông cậu của ông khai khi vào học ở Huế, còn ngày sinh chính xác là ngày 29 tháng Chạp năm Bính Thìn (dương lịch là ngày 22 tháng 1 năm 1917).
Ông lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu.
Từ 1942 ông tham gia phong trào sinh viên và mặt trận Việt Minh. Tháng 8 – 1945 ông dự hội nghị quốc dân tại Tân Trào và được bầu vào uỷ ban cứu quốc, sau đó là chíng phủ cách mạng lâm thời. Sau cách mạng tháng 8 – 1945 ông được cử giữ các chức vụ bộ trưởng, thứ trưởng của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và sau này là cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Năm 1984 ông giữ chức vụ uỷ ban trung ương liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam. Năm 1996 ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Trước cách mạng tập thơ tiêu biểu của ông là tập “Lửa thiêng” 1940. Tập thơ thể hiện một nỗi buồn mênh mang, da diết mà Hoài Thanh gọi là một “Hồn thơ ảo não”. Ngoài ra ông còn có tập thơ “Vũ trụ ca” và tập văn xuôi “Triết lí kinh cầu tự”. Sau cách mạng tháng Tám thơ ông thể hiện niềm vui và niềm tự hào trước cuộc sống mới, đất trời mới. Các tập thơ tiêu biểu gồm “Trời mỗi ngày lại sáng” 1958, “Đất nở hoa” 1960, “Bài thơ cuộc đời” 1963, “Chiến trường gần đến chiến trường xa” 1973, “Ngày hằng sống ngày hằng thơ” 1975, “Ngôi nhà giữa nắng” 1978, “Và hạt lại gieo” 1984.
Bài thơ được ra đời vào tháng 9 – 1939, bài thơ được viết trong khung cảnh của một buổi chiều khi nhà thơ đứng trên bờ đê sông Hồng nhìn thấy cảnh sông dài trời rộng và từ đó một tâm hồn đang ảo não buồn đã làm cho cảnh sông nước mang dáng vẻ buồn. Bài thơ ra đời trong một khung cảnh và một tâm trạng như thế.
Ðời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng, ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu, càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.
(Hoài Thanh)
I – TIỂU SỬ
Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31-5-1919 tại xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là huyện Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Bố là nhà nho, đậu tam trường, làm hương sư, sau về quê dạy chữ Hán. Mẹ là một cô gái ở vùng quê có nghề dệt lụa truyền thống (xã Tùng Ảnh, huyện Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Cả hai đều yêu văn chương và rất thuộc truyện Kiều.
– Quê Huy Cận là một vùng bán sơn địa, đẹp và nghèo; cảnh vật hùng vĩ, còn giữ nguyên vẻ hoang sơ. Người dân ở đây rất mê hát ví dặm, kể truyện thơ Nôm.
– Không khí gia đình thường nặng nề với nhiều xung đột giữa các thế hệ. Cậu bé Huy Cận rất thích lang thang giữa trời đất bao la cùng những trò chơi dân dã (thả diều, đánh trống đất); được gần gũi với đất đai đồng ruộng và cuộc sống người nông dân; từ đó, năng lực nhạy cảm trước những biểu hiện tinh tế của tạo vật và lòng yêu mến, trân trọng thiên nhiên, con người có điều kiện nảy nở.
Có thể nói hồn thơ Huy Cận thành hình và được vun đắp bởi truyền thống văn hóa của gia đình, quê hương:
Tôi sinh ra ở miền sơn cước
CÓ NÚI LÀM XƯƠNG CỐT THÁNG NGÀY
Ðất bãi tơi làm da thịt mát
Gió sông như những mảnh hồn bay
– Học chữ Hán với bố và học đến lớp tư ở quê. Từ lớp năm đến hết tú tài toàn phần: học ở Huế. Kết bạn với Xuân Diệu từ 1936. Năm 1939, ra Hà Nội học Cao Ðẳng Nông Lâm. Từ 1941, vừa học vừa tham gia mặt trận Việt Minh.
– Cách mạng tháng Tám thành công, giữ chức Bộ trưởng Canh Nông trong chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ tháng 5 đến tháng 11- 1946: Thứ trưởng Bộ Nội Vụ. Trong kháng chiến chống Pháp: Thứ trưởng Bộ Canh Nông, rồi Thứ trưởng Bộ Kinh Tế. Từ 1955, chuyển sang công tacï lãnh đạo văn hóa với chức vụ Thứ trưởng thường trực Bộ Văn hóa. Từ 1984 đến 1987: Bộ trưởng đặc trách công tác văn hóa nghệ thuật tại văn phòng Hội Ðồng Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Ủy ban trung ương Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật. Hiện nay, Huy Cận là Phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam.
– Ngoài những hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa trong nước, Huy Cận còn là nhà hoạt động quốc tế năng động với nhiều đóng góp lớn. Ông từng là đồng Chủ tịch Ðại hội nhà văn Á Phi họp ở Ai Cập (02-1962), đồng Chủ tịch Ðại hội văn hóa toàn thế giới họp tại Cu Ba (01-1968), Ủy viên Hội đồng chấp hành Unesco (1978-1983), Ủy viên Hội đồng cao cấp các nước nói tiếng Pháp.
II – QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC
Tác phẩm tiêu biểu:
* Trước 1945: Lửa thiêng (1940), Vũ trụ ca (1942), Kinh cầu tự (văn xuôi triết lý, 1942).
** Sau 1945: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Ðất nở hoa (1960),
Bài thơ cuộc đời (1963), Hai bàn tay em (1967),
Những năm sáu mươi (1968), Cô gái Mèo (1972),
Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973),
Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975), Hạt lại gieo (1984),
Tuyển tập (1986).
- Thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám:
- Tập thơ Lửa Thiêng:
* Huy Cận bắt đầu sáng tác từ năm 1936 bằng những bài bình luận văn học đăng trên các báo Tràng An, Sông Hương; với bút danh Hán Quỳ.
– Từ 1938, Huy Cận có thơ trên báo Ngày nay. Tập thơ đầu tay Lửa Thiêng ra mắt độc giả vào tháng 11-1940, (bằng tiền tái bản tập Thơ Thơ của Xuân Diệu). Ðây là thời gian Huy Cận cùng sống với Xuân Diệu tại số 40 Hàng Than-Hà Nội.
– Gồm 50 bài, một số đã đăng báo, Lửa Thiêng nhanh chóng được độc giả nhiệt liệt đón nhận. Chính ngọn lửa thiêng thắm đượm tình người, tình đời đã giúp Huy Cận có được vị trí tiêu biểu trong làng thơ Mới, giai đoạn cực thịnh của nó.
* Lửa Thiêng trước hết là tiếng lòng của một thanh niên mới lớn (21 tuổi) đang thể hiện niềm vui, nỗi buồn của chính mình. Như đa số thơ Mới, tập thơ lấy tuổi trẻ và tình yêu làm đề tài chủ yếu. Nhưng giữa lúc độc giả đã quá quen thuộc với giọng nỉ non, sầu não trong thơ Mới thì những cung bậc tình yêu dễ thương ở lứa tuổi học trò, lứa tuổi còn nhiều e ấp vẩn vơ, chưa nhuốm mùi nhục cảm – có sức hấp dẫn mới lạ:
Ðường trong làng: hoa dại với mùi rơm
Người cùng tôi đi giữa đường thơm
Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng
Ðất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng
Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu
… Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bướm vàng nũa chứ
Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự
(Ði giữa đường thơm)
* Nhưng tình yêu ấy vẫn không bền, nhanh chóng rơi vào vô vọng. Bởi có một nỗi u hoài thường trực trong tâm hồn, bắt nguồn sâu xa từ bi kịch bế tắc, vỡ mộng. Thành ra, thơ Huy Cận vừa hồn nhiên nhất vừa buồn nhất trong các nhà thơ Mới.
Hỡi Thượng đế! Tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang
Sầu đã chín, xin người thôi hãy hái
Nhận tôi đi, dầu địa ngục, thiên đường
(Trình bày)
– Buồn thương, sầu não là âm hưởng chính khiến Lửa Thiêng như bản ngậm ngùi dài. Tập thơ dằng dặc một nỗi buồn nhân thế, một nỗi đau đời. Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Ðông Á,…đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này (Hoài Thanh). Nỗi buồn như kết quả của quá trình lắng nghe tinh tế nhịp tuần hoàn vũ trụ và nỗi ngậm ngùi nhân gian. Ðó là tấm lòng …tủi nắng sầu mưa. Cũng đất nước mà nặng buồn sông núi.
– Cái buồn trong Lửa Thiêng không xuất phát từ bi kịch cá nhân nhà thơ mà gắn nhiều hơn với tâm trạng xã hội, với ý thức về thân phận nô lệ của cả một thế hệ. Trong lời tựa cho lần xuất bản đầu tiên, Xuân Diệu có nhận xét: Chàng than nỗi tháng ngày vùn vụt, bảo rằng hoa xuân không đậu, đời thoảng mùi ôi, trong khi mình chưa sống hết tuổi xuân, đang độ trẻ măng của đời người! Cái tiếc sớm, cái thương ngừa áy chẳng qua là sự trá hình của lòng ham đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống.
– Triền miên trong buồn thương nhưng Huy Cận không mất hút vào cõi siêu hình hay chán chường, tuyệt vọng- như không ít nhà thơ Mới. Nhà thơ vẫn tha thiết, chân thành hướng về phần thiên lương cao đẹp của cuộc đời; cảm nghe được hồn thiêng đất nước, hương vị nồng đượm của quê hương và nhựa sống tiềm tàng trong nhành cây ngọn cỏ:
Luống đất thơm hương mùa mới dậy
Bên đường chân rộn bước trai tơ
Cành xanh cành đẹp xui tay với
Sông mát tràn xuân nưóc đậm bờ
(Xuân)
Lửa Thiêng được viết bằng một nghệ thuật vững vàng, độc đáo. Âm hưởng chủ đạo: nhẹ nhàng, thâm trầm, hướng vào nội tâm. Lời thơ, ý thơ tự nhiên, không cầu kỳ rắc rối. Cảnh sắc ít đường nét, giản ước, thanh thoát; tạo được ấn tượng về một không gian bàng bạc, xa vắng, đậm đà phong vị Ðường thi (Tràng giang, Buồn đêm mưa). Ngoài những thể thơ Mới khá phổ biến, Huy Cậnđặc biệt thành công ở thể lục bát truyền thống. Với âm hưởng phong phú, hình ảnh mới mẻ, nhà thơ đã góp phần khẳng định khả năng biểu hiện tinh tế của thể thơ dân tộc này (Ngậm ngùi, Buồn đêm mưa, Thuyền đi, Trông lên, Chiều xưa,…).
Những bài thơ tiêu biểu: Tràng giang, Buồn đêm mưa, Ngậm ngùi, Vạn lý tình, Ði giữa đường thơm, Tình tự, Thuyền đi, Chiều xưa, Ðẹp xưa, Trình bày, Mai sau.
- Từ sau Lửa Thiêng:
– Trong bối cảnh xã hội ngày càng đen tối, thơ Mới dần đi vào ngõ cụt. Mỗi nhà thơ loay hoay tìm lối thoát cho riêng mình. Huy Cận thoát ly vào vũ trụ và thiên nhiên. Ông hoàn chỉnh cả một hệ thống triết lý ngợi ca niềm vui siêu thoát ấy trong tập văn xuôi Kinh cầu tự, năm 1942. Nhà thơ kêu gọi mọi người trở về hòa nhập vào tạo vật, tìm nguồn vui từ thiên nhiên vũ trụ: Có lẽ tạo vật đau thương, đất trời vắng lạnh vì nỗi lòng ta xa cách tạo vật đó thôi. Ta hãy trở về, ta hãy nhập cuộc, có nhịp sống đưa nâng, có dòng đời xô đẩy, cái vui lớn, cái vui trọng đại dâng sóng tràn khắp cõi đời.
– Triết lý ấy được thể hiện đầy đủ, cụ thể trong Vũ trụ ca – tập thơ viết năm 1942, chưa in thành sách. Thoát vào vũ trụ, hồn thơ Huy Cận – với những cảm xúc mới lạ – trở nên khoáng đạt, mạnh mẽ hơn. Nhà thơ say sưa với cái vô cùng của trời đất, trăng sao. Nhiều tứ thơ hay, nhiều hình ảnh rực rỡ xuất hiện:
+ Trời thắm duyên rằm vừng nhạc mở
Chuông sao rung nhớ, tiếng vàng bay
Lượng vui muôn kiếp cân đầu sóng
Biển rủ rê lòng nhập cuộc say
(Lượng vui)
+ Trời xanh ran lá biếc
Biển chóa ngập buồm vàng
Gió thổi miền bất diệt
Mây tạnh đất hồng hoang
(Trời, Biển, Hoa, Hương)
Huy Cận như gặp lại niềm vui thuở trước, lại hân hoan, hồ hởi và rạo rực những khát khao của tuổi trẻ:
Ta vận tấm xuân đi hớn hở
Tâm tư ngào ngạt hiến dâng đời
Thân cũng hát lừng cao nhịp lửa
Hoa thiên thu hẹn nở cùng môi. (Áo xuân)
– Nhưng một điều rất dễ nhận ra: cái vui trong Vũ trụ ca là vui gượng, cố vui nên không trọn vẹn, vẫn mang vẻ chông chênh, vô vọng. Cho nên đôi khi để đạt ý đồ nghệ thuật, tác giả rơi vào cường điệu, cầu kỳ; hình ảnh đậm màu sắc tượng trưng. Tình thì mới nhưng ý tứ dễ đơn điệu, cũ mòn. Ðiều này là tất nhiên, bởi dù có trốn tận đâu vẫn không chạy khỏi chính mình. Chính cái Tôi giàu cảm xúc, nặng tình với đất nước, dân tộc đã không để yên nhà thơ trong sự huyễn hoặc:
Về đâu những bước thời gian đã
In dấu mong manh trên cánh đào?
Vềđâu hạt bụi vàng thao thức
Theo bánh xe quay vòng khát khao?
Về đâu ?… Câu hỏi cứ lặp đi lặp lại như một ám ảnh, day dứt khôn nguôi về ngày mai, về ý nghĩa của kiếp người.
Những bài thơ tiêu biểu: Xuân hành, Lượng vui, Áo xuân, Triều nhạc,…
Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của thơ Mới. Thơ ông là tiếng lòng thiết tha gắn bó với quê hương đất nước, khao khát được hiến dâng tuổi trẻ và tài năng; nhưng khi vấp phải thực trạng xã hội, những kỳ vọng ấy đã tan vỡ hoàn toàn. Như nhiều nhà thơ lãng mạn khác, Huy Cận giai đoạn này ít thơ vui hơn thơ buồn. Luôn có một nỗi sầu thường trực trên từng trang thơ của ông, nhưng đó là biểu hiện sinh động của bi kịch tâm trạng; đáng được cảm thông, trân trọng.
2– Thơ Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám:
Sau khi Lửa Thiêng ra đời một năm, Huy Cận tìm đến với Cách mạng (hoạt động trong mặt trận Việt Minh). Như vậy, ánh sáng của lý tưởng Cộng sản đã manh nha trong hồn thơ mang mang thiên cổ sầu ấy từ khá lâu trước 1945. Và sự đổi đời tháng Tám có ý nghĩa như một bước ngoặt lịch sử, đưa trang thơ Huy Cận vượt khỏi những ám ảnh, những giới hạn chật hẹp do mặc cảm nặng nề về thân phận nô lệ tạo nên. Như đa số các nhà thơ Mới, Huy Cận rưng rưng chân thành trở về hòa nhập với cuộc sống.
Quan điểm nghệ thuật, lập trường tư tưởng đã thay đổi căn bản; nhưng như thế vẫn chưa thể có thơ hay. Cần một khoảng thời gian nhất định – tùy tình trạng tâm tưởng của mỗi nghệ sĩ – để những rung động ban đầu được nung, được nén lại thành cảm xúc nghệ thuật. Mặt khác, mọi sự thay đổi đều cần được thử thách qua thực tế. Thơ Huy Cận sau 1945 thể hiện rõ quá trình đấu tranh tự khẳng định sự góp mặt của một nhà thơ lớp trước, vào cuộc sống mới. Mười ba năm sau, 1958, mới có một tập thơ (Trời mỗi ngày lại sáng), rõ ràng hành trình từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui ở Huy Cận không giản đơn chút nào.
Thơ Huy Cận từ 1945 đến kháng chiến chống Mỹ:
Khoảng thời gian này, có 04 tập thơ tiêu biểu, ghi nhận quá trình chuyển biến và sự hồi sinh mãnh liệt của hồn thơ Huy Cận: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Ðất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Hai bàn tay em (1967).
– Phải mất hơn mười năm trăn trở, phấn đấu không ngừng tự vượt lên thoát khỏi ám ảnh cũ, hồn thơ Huy Cận mới hồi sinh và khởi sắc. Vốn quen quanh quẩn sống bằng ảo vọng, thích phiêu diêu vô định lánh đời trong vũ trụ, giờ bừng mắt giữa cuộc đời thực; vui đấy, nhưng không khỏi ngỡ ngàng, mặc cảm. Ngập ngừng, dè dặt khoác ba lô lên vai, Huy Cận đi vào kháng chiến. Hồn thơ ông thắm hồng da thịt trở lại cùng với sự hồi sinh vĩ đại của cả dân tộc.
– Thế giới thơ Huy Cận trước kia hầu như thiếu hơi người, vắng những sắc màu âm thanh bình thường của sự sống, nên hoang sơ cô tịch. Chỉ còn một mình nhà thơ rợn ngợp giữa không gian, chìm khuất trong nỗi mang mang thiên cổ sầu. Giờ đây, nhà thơ mở rộng tâm hồn cho cuộc sống ùa vào. Vẫn còn đó năng lực cảm nghe tinh tế mạch đời bền bỉ, vẫn không nguôi niềm khắc khoải không gian, nhưng giữa con người với thiên nhiên đã có mối giao hòa kỳ diệu:
Giọt mưa cũ ố vàng thơ phú
Triều mưa nay đoàn tụ lúa xanh
Cũng là thức giữa năm canh
Mưa xưa lạnh lẽo, an lành mưa nay
(Mưa mười năm)
– Huy Cận phát huy sở trường bằng việc phát hiện chất thơ biểu hiện tinh vi, phong phú trong đời thường. Dường như mọi biểu hiện của cuộc sống bình dị – qua cái nhìn của nhà thơ – đều nên nhạc, nên thơ. Ông say sưa ngợi ca một khu nhà mới, đoàn thuyền đánh cá, những ngày hội mùa xuân,…Con người mới trong lao động xây dựng đất nước thành hình tượng thật khỏe khoắn, lạc quan, chan chứa nghĩa tình:
Anh tặng em buổi sáng hôm nay
Có hoa sen nở hồ Tây trắng hồng
Tặng em trời mát như sông
Trong veo chảy giữa đôi dòng cây xanh
(Buổi sáng hôm nay)
– Chính nhờ hút nhụy từ đời sống xanh tươi, hồn thơ Huy Cận có được nguồn sinh lực mới. Cuộc sống mới giúp nhà thơ nhận ra chân giá trị của lao động và vẻ đẹp chân chính của người lao động. Thiên nhiên tạo vật không còn đối lập với con người mà cùng con người hợp thành bức hoành tráng chói chang, rạng rỡ (Ðoàn thuyền đánh cá).
* Thời kỳ này đánh dấu một bước chuyển biến mới của hồn thơ Huy Cận. Mỗi tập thơ là một nỗ lực lớn, tự vượt lên để khẳng định sự góp mặt vào cuộc đời mới. Với ý nghĩa đó, thơ Huy Cận còn củng cố nhận thức về cuộc đổi đời lịch sử và bồi đắp những tình cảm trong sáng, lành mạnh.
Thơ Huy Cận trong kháng chiến chống Mỹ:
Trong kháng chiến chống Mỹ, Huy Cận đã góp tiếng thơ mình vào việc phản ánh những sự kiện, những vấn đề trọng đại của chiến tranh. Bằng nhiều chuyến đi thực tế vào tuyến lửa, nhà thơ kịp thời chuyển biến cách nhìn, cách nghĩ cho phù hợp với giai đoạn cách mạng mới. Liên tiếp ra đời nhiều tập thơ có giá trị: Những năm sáu mươi (1968); Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973); Những người mẹ, những người vợ (1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975).
– Trong khuynh hướng chung của thơ chống Mỹ, thơ Huy Cận tăng cường tính thời sự và tập trung vào việc khẳng định, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng miền Nam. Từ thế đứng hùng vĩ và tầm vóc lớn lao của dân tộc trên tuyến đầu chống Mỹ, Huy Cận càng có điều kiện để suy ngẫm về quá khứ và hướng về tương lai; từ truyền thống dân tộc đến quan hệ với thế giới, với thời đại. Giữa ngất trời đạn bom, cái nhìn của nhà thơ vẫn hướng về öphía khái quát để phát hiện ra những tầng sâu văn hóa truyền thống của đời sống con người Việt Nam:
Sống vững chải bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa
Trong và thật: sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa
(Ði trên mảnh đất này)
– Tính chính luận, suy tưởng thể hiện rõ trong nhiều bài thơ. Xuất phát từ những sự kiện chính trị-xã hội hay những chi tiết cụ thể của đời sống, nhà thơ mở rộng liên tưởng để khám phá bề sâu triết lý của vấn đề.
Trước ngã ba Ðồng Lộc – một trọng điểm trên tuyến đường vào Nam, nơi ghi dấu sự hy sinh dũng liệt của 10 cô gái phá bom – Huy Cận nghĩ đến ý nghĩa quyết định của những ngã ba trong đời mỗi người, mỗi dân tộc:
Qua trái tim ngã ba Ðồng Lộc
Máu qua tim máu lọc
Xe vượt ngã ba xe xốc tới miền Nam
…Những ngã ba Việt Nam
Trên đường dài kẻđịch còn găm
Nhiều bom nổ chậm
…Ðường sẽ thông xe đi về Cách mạng
(Ngã ba Ðồng Lộc)
Bằng những hình ảnh giản dị, cụ thể, Huy Cận tập trung ngợi ca sức quật khởi, sức sống bất diệt và phong thái ung dung của con người Việt Nam. Nhà thơ đi đến một khái quát có ý nghĩa nhân văn sâu sắc về cuộc kháng chiến chống Mỹ: đây là cuộc chiến đấu và chiến thắng của nhân nghĩa trước bạo tàn phi nghĩa, của sự sống trước sự hủy diệt. Nhận thức này thấm sâu trong cảm xúc và hình tượng thơ, tạo nên tâm thế bình tỉnh, tự tin của cả một dân tộc anh hùng trước những thử thách ác liệt. Trong Giờ trưa, cuộc sống vẫn êm đềm diễn ra với tiếng chim hót, nhện giăng tơ, gà cục tác,… bất kể sự lồng lộn của con ma Mỹ
Buổi trưa ấm lại bốn bề tiếp tục
Con gà mái lại đâu đây cục tác
Báo với đời thêm một trứng tròn to
Anh bộđội ngoái đồng ngồi trên mâm pháo bóng tròn vo
Chân lý góp thêm một cách nghĩ, thật giản dị, nhưng đầy triết lý về cuộc kháng chiến trường kỳ
Ðủ tháng năm ta sẽ đánh giặc xong
Trái chín cây đâu phải chín nóng lòng
– Quê hương đất nước, nông thôn Việt Nam luôn là đề tài quen thuộc, không thể thiếu trong thơ Huy Cận. Thời chống Mỹ, đó là những làng quê yên ả với nhịp sống tưởng như bình lặng nhưng luôn có nhiều xao động tinh tế. Vẻ đẹp truyền thống đang có nhiều đổi thay cho phù hợp với thời đại mới
Gà gáy trong mưa vẫn tiếng vang
Giọng kim, giọng thổ rộn vang đồng
Ðược mùa giống mới, gà no bữa
Tiếng gáy tròn như lúa nặng bông
(Gà gáy trên cánh đồng Ba Vìđược mùa)
***Hai bàn tay em (tập thơ cho thiếu nhi):
Huy Cận rất yêu mến và quan tâm đến trẻ con. Nhà thơ dành hẳn một tập thơ cho các em. “Hai bàn tay em” khai thác đề tài từ những sự vật, khung cảnh gần gũi với cuộc sống của trẻ con (con cóc, con ve, con dế, cái chong chóng, buổi trưa hè,…); những khía cạnh tình cảm gia đình thân thuộc (cha mẹ-con cái, anh chị-em, ông bà-cháu); những câu chuyện lịch sử, những tấm gương thiếu niên anh hùng.
Tập thơ như những bài học nhằm giáo dục các em lòng yêu quê hương đất nước, yêu con người, yêu lao động, tinh thần đoàn kết,…Không là những lời giáo huấn khô khan, tiếng thơ Huy Cận rất hồn nhiên, ngộ nghĩnh nên dễ đi vào tâm trí trẻ thơ:
– Buổi trưa lim dim
Nghìn con mắt lá
Bóng cũng nằm im
Trong vườn êm ả
– Bé gọi con dế
Quen nấp đầu hồi
Dế kêu the thé
Giật mình bưởi rơi
*Từ 1975 đến nay, Huy Cận vẫn sáng tác đều đặn. Gác lại chuyện chiến tranh, tâm hồn nhà thơ trở về với mạch cảm xúc quen thuộc của cuộc đời hàng ngày quanh mình; lại say mê thiên nhiên, vũ trụ và nghiền ngẫm, suy tư về sự sống con người. Những tập thơ tiêu biểu: Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984), Chim làm ra gió (1989), Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ (1997).
Thơ Huy Cận tiếp tục phát triển theo hướng suy tưởng, hướng nội hơn; có khuynh hướng chiêm nghiệm về ý nghĩa nhân sinh cao cả từ những biểu hiện bình dị của đời thường:
Yêu mãi, yêu rồi, đâu hết yêu
Cuộc đời như miếng đất phì nhiêu
Trồng bao nhiêu vụ còn tươi tốt
Hạt gặt xong rồi, hạt lại gieo
(Hạt lại gieo)
III. PHONG CÁCH THƠ HUY CẬN
Huy Cận có năng lực cảm nhận cuộc sống thật đặc biệt, có thể nghe được từ những biểu hiện tinh vi của tạo vật đến những biến đổi lớn lao trong vũ trụ vô cùng vô tận. Ðây là nhà thơ có “cái nghiêng tai kỳ diệu”(Xuân Diệu). Huy Cận cảm nhận được trọn vẹn từ những mùi vị dân dã của đất đai đồng ruộng đến lời ru của gió, nhịp thở của biển, để rồi nói lên linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên bằng giai điệu trong trẻo, dễ rung động lòng người.
+ Trước 1945, tuy vật vã với nỗi sầu đau nhưng thiên nhiên trong thơ Huy Cận vẫn thấm thía tình người, tình đời (Ngậm ngùi, Tràng giang, Buồn đêm mưa):
– Ðêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn
– Nắng chia nửa bãi, chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi hãy ngủ, anh hầu quạt đây
Từ sau Cách mạng tháng Tám, tiếng thơ trở nên đằm thắm, sâu nặng nghĩa tình; cảnh sắc thiên nhiên ấm áp, xôn xao hơn nhiều:
Chiều thu trong, lá trúc vờn đẹp quá
Lá mía xanh nhung quạt vào mái rạ
Tiếng lao xao như ai ngả nón chào
Hoa mướp cuối mùa vàng rực như sao
Giếng trong lẻo, trời xanh in thăm thẳm
(Chiều thu quê hương)
+ Năng lực ấy không chỉ có được bằng sự tinh nhạy của các giác quan (rèn dũa trong những năm tháng tuổi thơ, sống ở quê hương) mà còn xuất phát từ chiều sâu tâm hồn nhà thơ – một tâm hồn luôn rộng mở để đón nhận đủ đầy âm vang mọi phía đời sống.
+ Có thể nói: thiên nhiên, quê hương đất nước là nguồn cảm hứng vô tận trong thơ Huy Cận. Nếu ở Xuân Diệu, thiên nhiên thường sực nức hương vị và ngôn ngữ ái tình thì ở Huy Cận, núi sông cây cỏ bao giờ cũng lặng lẽ, bình thản như tâm hồn tác giả. Không thể hình dung được thơ Huy Cận sẽ ra sao nếu thiếu đi nắng vàng, trời xanh, gió biếc, biển rộng, sông dài,… Nhưng thơ ấy không thuộc loại thơ điền viên, bởi trước sau tác giả vẫn luôn nặng lòng đời, luôn có ý thức phát hiện rồi khẳng định sự hài hòa giữa con người với tự nhiên; để mở rộng biên giới những xúc cảm, nâng tầm nhận thức về sự tồn tại của con người. “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường nhưởđây nhà thơđã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình” (Xuân Diệu).
Hồn thơ Huy Cận luôn vận động giữa nhiều đối cực: vũ trụ-cuộc đời, sự sống-cái chết, nỗi buồn-niềm vui, hiện thực-lãng mạn.
+ Vũ trụ và cuộc đời luôn song hành tồn tại, thành hai cực hấp dẫn hồn thơ Huy Cận. Thơ ông ngày càng gắn bó với đời, nhưng cảm hứng về cuộc đời không tách rời cảm hứng về vũ trụ. Vươn lên tìm hiểu những bí ẩn của không gian vô cùng cũng đồng thời nhìn về trái đất để hiều hơn chính mình. Khát vọng ấy mang bản chất triết lý, nhân văn cao cả. Bởi đích đến cuối cùng của nó không phải cõi siêu hình nào mà chính là mặt đất, cõi sống của con người.
+ Huy Cận viết khá nhiều về cái chết, về sự tương phản nghiệt ngã giữa hữu hạn đời người với cái vô hạn của tạo hóa. Sự sống là bất tử, vũ trụ là vô cùng nhưng con người không thể tránh được cái chết. Nghĩ đến lúc từ giã cõi đời, nhà thơ không khỏi xót xa nuối tiếc. Nhưng đó không là biểu hiện của thái độ ham sống sợ chết tầm thường mà là của khát vọng được cống hiến hết mình, được tái sinh:
Rồi một ngày kia giã cõi đời
Xin cho gieo hạt hết trong tay
Chứ tay còn nắm chưa vơi hạt
Mà phải ra về cực lắm thay
(Hạt lại gieo)
Ðời thân yêu, một ngày mai ta chết
Cho ta đi khi hè chói chang trưa
Ðể ta hiểu giã từ chưa phải hết
Nằm đất quen như hạt chín sang mùa
(Say mùa hè)
+ Nỗi buồn và niềm vui ở Huy Cận đều được đẩy đến cực đoan: lúc buồn-buồn đến ảo não, thê thiết; khi vui-vui tràn trề, dào dạt. Hành trình tâm tưởng của Huy Cận đi từ nỗi buồn sâu đến niềm vui lớn. Cảm nhận, thể hiện rõ hai đối cực này chứng tỏ nhà thơ rất thiết tha với cuộc đời và ý thức đầy đủ về thân phận con người. Khi nỗi buồn được ý thức, hóa thành nỗi đau đời; khi niềm vui được ý thức, sẽ thành hạnh phúc, tin yêu.
+ Cảm hứng nghệ thuật của Huy Cận, trước 1945, có sự phân cực khá rõ giữa hiện thực và lãng mạn. Từ sau 1945, hai đối cực ấy dần dần đạt đến độ hòa hợp cần thiết, trên cơ sở sự thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực trong cuộc sống mới.
Huy Cận là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn tầm cỡ thế giới. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ – những khi đạt đến độ thuần thục – rất dễ đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh – trong tay Huy Cận – vừa mộc mạc chân tình vừa lắng đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rõ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc khắp các tứ thơ. Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà thâm trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó, có thể nói: ấn tượng không gian có được – trước hết – nhờ phong vị Ðường thi.
IV – KẾT LUẬN CHUNG
Con đường thơ của Huy Cận khá tiêu biểu cho lớp nhà thơ thuộc thế hệ thứ nhất, văn học Việt Nam hiện đại. Từ một thành viên xuất sắc của phong trào thơ Mới, Huy Cận đến với Cách mạng, tìm thấy mục đích, lý tưởng chân chính cho tiếng nói nghệ thuật của mình và trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại.