Trình bày cách ứng xử của người Việt với đặc điểm môi trường

Môi trường tự nhiên:

Khái niệm : Môi trường là tổng thể những nhân tố tự nhiên xung quanh chúng ta gồm bầu khí quyển, nước, thực vật, động vật, thổ nhưỡng,…

Con người sống trong quan hệ chặt chẽ với thiên nhiên cách ứng xử với môi trường tự nhiên là thành tố quan trọng thứ 3 của hệ thống văn hóa.

Trong việc ứng xử với môi trường tự nhiên có thể xảy ra 2 khả năng, những gì có lợi cho mình thì con người hết sức tranh thủ tận dụng còn những gì có hại thì ra sức ứng phó. Việc ăn uống là lĩnh vực tận dụng môi trường tự nhiên còn mặc, ở và đi lại thuộc lĩnh vực ứng phó. Mặc và ở là để ứng phó với thời tiết, khí hậu, đi lại là ứng phó với khoảng cách.

Ranh giới tận dụng và ứng phó không phải lúc nào cũng rạch ròi để ứng phó với thời tiết, khí hậu con người đã tận dụng các chất liệu để đặt ngôi nhà sao cho có lợi nhất. Để ứng phó với khoảng cách , con người đã tận dụng tối đa địa hình và địa vật chọn cho mình phương tiện thuận lợi nhất.

a) Ăn

• Quan niệm về ăn và dấu ấn nông nghiệp trong cơ cấu bữa ăn.

* Hiển nhiên để duy trì sự sống ăn luôn là việc quan trọng số 1 tuy nhiên quan niệm của con người về chuyện này thì ko phải ai cũng giống ai, có những dân tộc coi ăn là chuyện tầm thường ko đáng nói nhưng người Việt Nam nông nghiệp luôn quan niệm : “Có thực mới vực được đạo”. Nó còn quan trọng đến mức Trời cũng ko dám xâm phạm ” Trời đánh tránh miếng ăn” . Mọi hành động của người Việt đều lấy ăn làm hàng đầu như: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn tiêu, ăn cắp, ăn trộm…

Ăn uống là văn hóa chính xác hơn đó là văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên cho nên ko có gì ngạc nhiên khi cư dân các nền văn hóa gốc du mục như phương tây , bắc trung hoa thiên về ăn thịt, còn bữa ăn của người Việt luôn mang đậm dấu ấn truyền thống nông nghiệp lúa nước.

+. Tục ngữ có câu:

” Người sống về gạo
Cá bạo về nước
Cơm tẻ mẹ ruột ”

Hay:

“Đói thì thèm thịt thèm xôi
Hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường ”

Không phải ngẫu nhiên mà người Việt gọi ” bữa ăn là bữa cơm” coi cây lúa là tiêu chuẩn của cái đẹp (em xinh là xinh như cây lúa).

+ Trong bữa ăn của người Việt Nam sau lúa gạo thì đến ” Rau Quả ” nằm ở 1 trong những trung tâm trồng trọng, Việt Nam có 1 danh mục rau quả mùa nào thức ấy, phong phú vô cùng . Đối với người Việt Nam thì ” đói ăn rau, đau uống thuốc ” là chuyện tất nhiên.

” Ăn cơm không rau như người già chết ko kèn trống ”
Hay

” Ăn cơm không rau như đánh nhau ko có người đỡ “.

Tuy nhiên nói đến rau trong bữa ăn không thể ko nhắc đến 2 món đặc thù là rau muống và dưa cà.

Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Các loại gia vị đa dạng như: hành , gừng, tỏi , ớt, tiêu, húng, mùi, răm, thì là… cũng ko thể thiếu đc trong bữa ăn của người Việt

+ Đứng thứ 3 trong cơ cấu ăn và đứng hàng đầu thức ăn động vật của người Việt là các loại thủy sản, sản phẩm của vùng sông nước. Sau ” Cơm rau” thì ” Cơm cá” đó là món ăn thông dụng nhất ” Có cá đổ vạ cho cơm , con cá đánh ngã bát cơm là thế”. Từ các loại thủy sản người việt có thể chế ra nhiều loại nước chầm đc biệt như các loại nước mắm, thiếu nước mắm chưa thể thành bữa cơm, cơm nước mắm ko phải lúc nào cũng đồng nghĩa với bình dân, các bà phi tần nhà nguyễn từng lấy nc mắm để tiến vua. Từ tiếng việt danh từ ” Nước mắm ” đã đi vào ngôn ngữ loài người và có mặt trong từ điển bách khoa đông tây.

+ Ở vị trí cuối cùng trong cơ cấu bữa ăn người Việt là thịt, phổ biến như thịt gà, lợn, trâu, bò… Đặc sản bình dân như thịt chó và các sơn hào hải vị khác.

* Đồ uống hút

Truyền thống của người Việt có trầu, cau , thuốc lào, nước vối. rượu gạo, chúng đều là những sản phẩm cổ truyền của nghề trồng trọt đông nam á.

+ Ăn Trầu Cau

+ Rượu

+ Cây chè và tục uống chè

• Tính tổng hợp trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt .

Tính tổng hợp trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt trước hết là cách chế biến đồ ăn, hầu hết các món ăn người Việt đều là sản phẩm pha chế tổng hợp, nói về cách chế biến tổng hợp tục ngữ VN có 1 hình ảnh so sánh thật dí dỏm: ” Nấu canh xuông ở chuồng mà nấu “. Cách pha chế tổng hợp ko chỉ cầu kì ở mùi vị món ăn mà còn cầu kì ở các cách chế biền món ăn như: xào, nấu, luộc, sốt vang, rán, tạo nên nét đặc trưng riêng ko chỉ ngon mà còn đẹp.

• Tính cộng đồng và tính mực thước trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt.

Tính tổng hợp kéo theo tính cộng đồng như ăn chung, hay còn gọi cách khác là bữa ăn gia đình tạo nên nét ấm cúng trong bữa ăn của người Viêt và thú uống rượu cần của người vùng cao là biểu hiện triết lý thâm thúy về tính cộng đồng sống chết có nhau.

Tính cộng đồng đòi hỏi ở con người 1 thứ văn hóa cao trong ăn uống ” Ăn trong nồi ngồi trong hướng”. Vì nét truyền thống của người Việt trong bữa ăn là mực thước, tính mực thước là biểu hiện của khuynh hướng quân bình trong âm dương nó đòi hỏi ” ăn chậm nhai kĩ ”

Khi ăn cơm khách 1 mặt phải ăn cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng chủ nhà, mặt khác phải chừa ra 1 ít trong các đĩa đồ ăn để tỏ rằng mình không chết đói, không tham ăn. Tục ngữ có câu : Ăn hết bị đòn. ăn còn mất vợ ”

Tính cộng đồng và tính mực thước trong bữa ăn thể hiện qua nồi cơm và chén nước mắm.

• Tính biện chứng , linh hoạt trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt.

* Tính linh hoạt của người Việt Nam thể hiện rất rõ trong cách ăn

* Tính linh hoạt còn thể hiện trong dụng cụ ăn : truyền thống sử dụng dụng cụ là đôi đũa, đó là cách ăn đặc thù mô phỏng động tác của con chim nhặt hạt xuất phát từ những thứ ăn những thứ ko thể dùng tay bốc hoặc mó tay vào được ( cơm, cá, nước mắm..)

* Biểu hiện ko kém quan trọng hơn cả của tính biện chứng trong việc ăn là ở chỗ người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chúng Âm- Dương bao gồm 3 mặt liên quan mật thiết với nhau là: âm dương của thức ăn, sự quân bình âm dương trong cơ thể và sự cân bằng âm dương giữa con người với môi trường tự nhiên.

READ:  Giao lưu và tiếp biến văn hóa phương Tây ở Việt Nam

+ Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương người Việt phân biệt thức ăn theo 5 mức âm dương ứng với ngũ hành: hàn ( lạnh ), nhiệt ( nóng ), ôn ( ẩm ), lương ( mát ), bình ( trung tính ).

+ Để tạo nên sự quân bình âm dương trong cơ thể ngoài việc ăn các món chế biến có tính đến sự quân bình âm dương người Việt Nam còn sử dụng thức ăn như những vị thuốc để điểu chỉnh sự mất quân bình âm dương trong cơ thể. Mọi bệnh tật đều do mất quân bình âm dương vì vậy mọi người bị ốm do quá ân cần ăn đồ dương và ngược lại ốm do quá dương cần ăn đồ âm để khôi phục lại sự thăng bằng đã mất.

+ Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường thì người Việt có tập quán ăn uống theo vùng khí hậu , theo mùa. Ăn theo mùa tức là tận dụng tối đa môi trường tự nhiên để phục vụ con người là hòa mình vào tự nhiên tạo nên sự cân bằng biện chứng giữa con người với môi trường. Thức ăn theo mùa hay mùa nào thức ấy ” Mùa hè cá sông, mùa đông cá bể, chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè…”

+ Tình biện chứng trong việc ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn phải hợp thời tiết , phải đúng mùa, và người Việt Nam sành ăn còn phải biết chọn đúng bộ phận có giá trị ( chuối sau, cau trước,đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm..). Thời điểm có giá trị còn là lúc thức ăn đang trong quá trình âm dương chuyển hóa, đang ở dạng âm dương cân bằng hơn cả và vì vậy mà rất giàu chất dinh dưỡng ( trứng lộn, nhộng, lợn sữa, ong non..)

b) Mặc

* Người việt chon trang phục do ảnh hưởng bởi 2 nhân tố

+ Khí hậu

+ Nghề nghiệp

* Đặc điểm trang phục của người Việt:

– Ăn chắc mặc bền

– Ăn no mặc ấm

– Người đẹp vì lụa lúa tốt vì phân

– Chân tốt vì hài , tai tốt vì hoa

* Trang phục vủa người Việt:

Nam giới: Khố , áo bà ba , áo the , quần , khăn đóng,…

Nữ giới: yếm , áo cánh , áo dài, váy , quần , khăn , nón ,…

c) Ở và đi lại

• Ứng phó với khoảng cách giao thông.

+) Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp sống định cư cho nên con người ít có nhu cầu di chuyển.Đặc biệt nhiều cụ già ở nông thôn thậm chí còn ít khi đi xa.Vì vậy ,dễ dàng hiểu được giao thông trước đây chủ yếu bằng đường bộ,thuộc loại lĩnh vực kém phát triển.

Từ thế kỉ XX còn phát triển các phương tiện đi lại bằng gia súc: trâu, ngựa, voi. Nhưng phổ biến vẫn là đôi chân.

+) Hoạt động chủ yếu của người nông nghiệp Việt Nam là di chuyển gần từ nhà ra đồng,từ nhà lên nương.Ruộng nước và nương rẫy là nơi không thể đưa các phương tiện xe nên họ dùng sức là chủ yếu là dùng sức.Chính vì vậy trên thế giới này không một ngôn ngữ có số lượng chỉ hoạt động vận chuyển bằng sức người đa dạng và phong phú như tiếng việt.

• Ứng phó với thời tiết, khí hậu : nhà cửa, kiến trúc

Đối với nông nghiệp thì ngôi nhà chính là tổ ấm để đối phó với thời tiết nóng lạnh, nắng mưa, gió bão- 1 trong những yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo cho họ 1 cuộc sống định cư ổn định: ” Có an cư thì mới có lạc nghiệp ” hay ” thứ nhất dương cơ, thứ nhì âm phần “. Do ngôi nhà chiếm vị trí quan trọng đặc biệt trong cuộc sống nên Nhà ( chố ở ) được đồng nhất với gia đình.
Ngôi nhà ở Việt Nam có những đặc điểm sau:

+. Do khu vực cư trú nên ngôi nhà của người Việt thường gắn liền với môi trường sông nước.

Những người sống bằng nghề sông nước ( chài lưới, chở đò..) thường lấy thuyền, bè là nhà ở gọi là nhà thuyền, nhà bè, nhiều gia đình gọi là xóm chài và làng chài. Tuy vậy nhưng họ vẫn có nhà trên sàn trên mặt nước để ứng phó với việc ngập lụt và khí hậu nhiệt đới với độ ẩm cao thêm vào đó là hình mái cong. Mái cong ngoài ý nghĩa là con thuyền thì ko có tác dụng thực tế gì, tạo dáng vẻ thanh thoát đặc biệt và gợi cảm giác bay bổng cho ngôi nhà vốn được trải rộng trên mặt bằng để hòa mình vào thiên nhiên.

+. Để đối phó với môi trường tự nhiên tiêu chuẩn ngôi nhà ở Việt Nam về mặt cấu trúc là nhà cao cửa rộng.

Kiên trúc mở tạo không gian thoáng mát, giao hòa với tự nhiên, cái cao của ngôi nhà VN bao gồm 2 yêu cầu : sàn và nền cao so với mặt đất và mái cao so với sàn/ nền. Nhà cao mà cửa ko cao mà phải rộng, của ko cao để tránh ảnh nắng chiếu xiên vào còn cửa rộng để đón gió mát và tránh nóng.

+. Biện pháp quan trong ko kém là chọn hướng nhà, chọn đất, tận dụng tối đa thế mạnh của môi trường tự nhiên.

Hướng nhà tiêu biểu là hướng Nam ” Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam “. Nhưng tùy thuộc vào địa hình địa vật xung quanh vào sự có mặt của núi rừng, của sông, của con đường… ” Phong” và ” Thủy” là 2 yếu tô quan trọng nhất, thuật phong thủy được xây dựng trên âm dương ngũ hành do vậy mà nhà phong thủy cần nắm vững hướng gió và hướng nước để âm dương được điều hòa là tốt nhất. Tuy nhiên trong việc ” chọn nơi mà ở ” thì người Việt còn có tính cộng đồng mà ko thể quên làng ” Nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền ”

+. Về cách thức kiến trúc thì đặc điểm của ngôi nhà VN truyền thống là rất động và linh hoạt.

Chất động linh hoạt đó trước hết được thể hiện ở lối kết cấu khung, cốt lõi của ngôi nhà là bộ phận khung chịu lực tạo nên bởi các bộ phận liên kết với nhau trong ko gian 3 chiều: theo chiều đứng, theo chiều ngang và theo chiều dọc. Tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau bằng mộng, mộng là cách ghép theo nguyên lý âm dương phần lồi ra của 1 bộ phận này với chỗ lõm vào có hình dáng và kích thước tương ứng của 1 bộ phận khác.

+. Về hình thức kiến trúc thì ngôi nhà là tấm gương phản ánh đặc điểm của truyền thống văn hóa dân tộc.

Trước hết là môi trường sông nước phản ánh qua cách làm nhà sán với vách riêng và mái cong hình thuyền. Rồi tính cộng đồng thể hiện ở việc trong nhà ko chia thành nhiều phòng nhỏ biệt lập như phương tây.
Người Việt Nam có truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu khách cho nên việc ưu tiên cho bộ bàn ghế tiếp khách là ko ngoại lệ. Hình thức kiến trúc ngôi nhà còn tuân thủ nguyên tắc coi trọng số lẻ của truyền thống văn hóa nông nghiệp : Ngọ môn 5 cửa 9 lầu, cột cờ 3 cấp, số gian của ngôi nhà bao giờ cũng là số lẻ.

READ:  Các triều đại thời kì phong kiến tự chủ trong tiến trình văn hóa Việt Nam

Cách liên kết theo lối ghép mộng âm dương giúp cho các bộ phận vừa gắn bó chặt chẽ lại vừa cơ động và linh hoạt. Nhìn chung chỉ trong 1 việc ở, ta cũng thấy nguyên lý âm dương và ý muốn hướng tới 1 cuộc sống hài hòa chi phối con người Việt Nam 1 cách trọn vẹn.

Môi trường xã hội :

• Môi trường xã hội là những nhóm người, những tập đoàn, những lĩnh vực hoạt động, những yếu tố hợp thành một tổ chức, những thể chế (pháp luật, kinh tế, xã hội, nghề nghiệp,…) xung quanh con người

• Cơ cấu xã hội Việt Nam cổ truyền:

Gia đình và dòng họ

Làng

Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội đó chính là cách chọn lọc, dung hòa và tích hợp nhiều nguồn gốc tạo ra văn hóa Việt Nam. Đó là quá trình:Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội đó chính là cách chọn lọc, dung hòa và tích hợp nhiều nguồn gốc bộc lộ tính chủ động và khả năng chi phối, tác dộng trở lại của văn hóa bản địa trong quá trình tiếp nhận. Dung hợp giữa văn hóa bản địa và văn hóa ngoại lai

Sự dung hợp của các hiện tượng văn hóa ngoại lai với nhau tổng hợp các tôn giáo – xuất hiện đạo Cao Đài+ Sự tồn tại của Tam giáo (Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo) cao hơn là sự tích hợp văn hóa Đông – Tây với học thuyết Mác. Sự dung hợp VH Đông – Tây

Chính sự dung hòa, hiếu hòa, linh hoạt đã làm các yếu tố VH ngoại lai sau khi được tiếp nhận không hề xung đột.

Ứng xử là một biểu hiện của sự giao tiếp, giữa con người với con người, giữa cá nhân với cộng đồng xã hội. Đồng thời nó cũng là sự phản ứng của người này trước sự tác động của người khác trong một tình huống nhất định, một hoàn cảnh nhất định được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong mối quan hệ giữa con người với nhau.

Tuy nhiên hành vi ứng xử văn hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó được hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện và trưởng thành của mỗi cá nhân đó trong một môi trường gia đình và xã hội nhất định. Hành vi ứng xử văn hóa được coi là các giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ của mỗi cá nhân Nó được biểu hiện trong mối quan hệ với những người chung quanh, trong học tập, công tác, với bạn bè và thậm chí ngay cả với chính bản thân mình. Chúng ta bàn nhiều về đạo đức, nhân cách của một con người, nhưng ít ai bàn đến phép lịch sự, cách đối nhân, xử thế trong các mối quan hệ giao tiếp diễn ra hàng ngày trong gia đình, và ngoài xã hội. Con người chúng ta sống giữa các mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Các mối quan hệ này có ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển nhân cách và xu hướng hành động của họ.

Chính cuộc sống đòi hỏi mỗi người phải có cách xử thế đúng đắn, thể hiện qua phép lịch sự trong quá trình giao tiếp với các đối tác khác nhau. Cách xử thế của mỗi cá nhân trong sự giao tiếp xã hội, được gắn với nền văn minh của từng thời đại và đặc điểm văn hoá của từng dân tộc, khu vực dân cư. Các biểu hiện của cách ứng xử mang tính dân tộc, tính giai cấp, giới tính, tuổi tác… Nó chịu ảnh hưởng của nghề nghiệp, địa vị xã hội và cũng mang đặc điểm cá tính của mỗi con người. Phép lịch sự trong việc ứng xử chính là một sự tổng hợp các nghi thức được biểu hiện ra trong cách giao tiếp, nhưng không phải là những ứng xử một cách máy móc mà là những việc làm, lời ăn tiếng nói linh hoạt, nhiều vẻ, gắn với từng hoàn cảnh, từng môi trường cụ thể và tuỳ theo đối tác gặp gỡ.

Ví dụ: Khi gặp gỡ người quen, ta chào, chứng tỏ ta đã nhận ra họ, kèm theo lời chào có thể là bắt tay, mỉm cười…Lời chào hỏi, liên quan đến những quy ước nhất định, chịu ảnh hưởng của những đặc điểm văn hoá dân tộc, vùng miền. Mục đích và ý nghĩa của lời chào hỏi chính là ta tự đặt mình trong mối quan hệ của cách xử thế đã được quy định và được xã hội chấp nhận. Khi muốn thiết lập mối quan hệ giữa những người mới gặp, thì lời giới thiệu của người thứ ba là rất cần thiết. Phép lịch sự dạy chúng ta tôn trọng người khác đó chính là một nghệ thuật sống tế nhị. Tôn trọng người tiếp xúc với mình chính là ta đang tôn trọng chính bản thân mình.

Trong thời buổi cơ chế thị trường hiện nay, cuộc sống ngoài xã hội diễn ra vô cùng phức tạp, đa dạng, những lời khuyên về những hành động ứng xử có văn hóa quả thật là khó đối với một số bạn trẻ hiện nay, nói thế nhưng không có nghĩa là thế hệ trẻ hiện nay không quan tâm tới việc ứng xử có văn hóa, mà do áp lực của học tập, công việc nên đôi khi họ chưa chú trọng tới việc ứng xử với nhau có tế nhị và có văn hóa. Để có thể tiếp xúc trò chuyện với người khác một cách thoải mái thì bản thân chúng ta phải biết thích ứng với những gì đang diễn ra xung quanh mình.

Sự cân bằng tình cảm đó sẽ đem lại cho ta một cảm giác thoải mái, tin tưởng trong sự giao tiếp. Khéo ứng xử, và ứng xử có tế nhị là không nên làm phiền người khác, không đi sâu vào đời tư của họ, biết giữ một khoảng cách tình cảm giữa mình với người tiếp xúc, đặc biệt khi mới gặp, không nên kể chuyện đời tư của mình một cách dễ đãi, không mời đến nhà những người ít quen biết.

Nếu có cách đối nhân xử thế đúng đắn, có phép lịch sự trong giao tiếp thì người ta sẽ có nhận thức đúng đắn về đạo đức tư cách lối sống của mình. Điều này giúp chúng ta ngày càng trưởng thành lên và có kinh nghiệm sống ngày càng phong phú. Cách đối nhân xử thế là thể hiện vốn sống của mỗi cá nhân, sự hiểu biết của mỗi người về các mối quan hệ xã hội người với người.